I. CHƯƠNG TRÌNH MÔN TRIẾT HỌC Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học
Ban hành theo Quyết định số 33/2004/QĐ-BGD&ĐT ngày 28/9/2004
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
II. ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT MÔN TRIẾT HỌC
(Biên soạn theo Giáo trình Triết học dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học của Bộ Giáo dục và Đào tạo
do Nxb, Lý luận Chính trị, Hà Nội, ấn hành năm 2006)
– Khái niệm triết học.
2. Đối tượng nghiên cứu của triết học
+ NgườiHy Lạp cổ đại gọi triết học là philosophia, ghép từ hai từ philos- tình yêu và sophia- sự thông thái. Như vậy, theo nghĩa đen, triết học là tình yêu sự thông thái. Nhà triết học là nhà thông thái bởi nó có khả năng làm sáng tỏ bản chất của sự vật, hiện tượng bằng hệ thống khái niệm, phạm trù và quy luật.
+ Triết học xuất hiện cả ở phương Đông và phương Tây vào khoảng từ thế kỷ VIII – VI trước Công nguyên (tr.c.n) tại một số nền văn minh cổ đại như Trung Quốc, Ấn Độ, Ai Cập, trung Đông v.v, nhưng triết học kinh điển chỉ phát triển ở Hy Lạp cổ đại.
– Định nghĩa triết học. Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
– Triết học thời cổ đại được gọi là khoa học của mọi khoa học. Triết học tự nhiên là hình thức đầu tiên của triết học.
– Triết học thời Trung cổđược gọi là triết học Kinh viện với nhiệm vụ lý giải và chứng minh cho sự đúng đắn của các giáo điều Kinh Thánh.
– Triết học thời Phục hưng và Cận đại được gọi là siêu hình học với nghĩa là nền tảng thế giới quan của con người.
– Triết học Mác-Lênin là khoa học nghiên cứu những quy luật chung nhất về sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy; đồng thời tiếp tục làm rõ vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại.
II. TÍNH QUY LUẬT VỀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC
III. VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI 1. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học
Sự hình thành, phát triển của triết học gắn với tiền đề kinh tế – xã hội và tiền đề nhận thức.
1. Tiền đề kinh tế – xã hội. Triết học ra đời khi xã hội đã có sự phân công lao động thành lao động trí óc và lao động chân tay; gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp.
2. Tiền đề nhận thức. Triết học ra đời khi tư duy con người đã đạt đến trình độ khái quát nhất định để đáp ứng nhu cầu nhận thức tổng thể về thế giới và con người; khi các thành tựu của khoa học chuyên ngành đã có vai trò nhất định đối với nội dung các tư tưởng và học thuyết triết học. Có thể khẳng định rằng, triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn quy định.
– Vai trò thế giới quan của triết học.
+ Định nghĩa. Thế giới quan là quan niệm của con người về thế giới và về vị trí, vai trò của con người trong thế giới đó.
+ Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, bởi triết học mô tả những vấn đề của thế giới quan bằng hệ thống các khái niệm và phạm trù, quy luật. Hơn nữa, triết học không chỉ nêu ra các quan điểm của mình mà còn chứng minh cho các quan điểm đó bằng lý tính. Thông qua thế giới quan triết học, thế giới quan sẽ được thể hiện qua các quan điểm về kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp luật, tôn giáo v…v
+ Các cấp độ thế giới quan.
Thế giới quan có nhiều cấp độ khác nhau như thế giới quan huyền thoại; thế giới quan tôn giáo; thế giới quan triết học (thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm); thế giới quan khoa học và thế giới quan không khoa học v.v. Việc xác định cấp độ, nội dung thế giới quan phụ thuộc vào vấn đề, liệu lợi ích giai cấp có phù hợp khách quan đối với xu hướng của sự phát triển lịch sử, với khoa học và với thực tiễn xã hội hay không.
+ Vai trò của thế giới quan triết học đối với nhận thức và thực tiễn.
Bản chất của thế giới quan là sự thống nhất biện chứng giữa nhận thức – đánh giá với thực tiễn – cải tạo; đưa lại cho con người khả năng tạo ra cácmục đíchxác định, đưa ra kế hoạch, lý tưởng chung của cuộc sống, làm cho thế giới quan có sức mạnh hiện thực.
– Vai trò phương pháp luận của triết học.
+ Định nghĩa. Phương pháp luận là hệ thống các quan điểm, nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp cũng như xác định phạm vi, khả năng áp dụng phương pháp hợp lý, có hiệu quả tối đa.
+ Các cấp độ phương pháp luận.
2. Vai trò của triết học đối với các khoa học chuyên ngành và tư duy lý luận
Phương pháp luận có nhiều cấp độ khác nhau như phương pháp luận ngành là phương pháp luận của các ngành khoa học cụ thể; phương pháp luận chung là các quan điểm, nguyên tắc chung hơn cấp độ ngành, dùng để xác định phương pháp hay phương pháp luận của nhóm ngành có đối tượng nghiên cứu chung nào đó; phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học) khái quát các quan điểm, nguyên tắc chung nhất làm cơ sở cho việc xác định các phương pháp luận ngành, chung và các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn.
+ Vai trò của phương pháp luận triết học đối với nhận thức và thực tiễn thể hiện ở chỗ nó chỉ đạo sự tìm kiếm, xây dựng; lựa chọn và vận dụng các phương pháp để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn; đóng vai trò định hướng trong quá trình tìm tòi, lựa chọn và vận dụng phương pháp.
1. Điều kiện ra đời, phát triển và đặc thù của triết học Ấn Độ cổ, trung đại a. Điều kiện ra đời của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
– Triết học có vai trò to lớn đối với việc rèn luyện năng lực tư duy lý luận của con người, bởi “một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”./.
I. TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI
– Điều kiện tự nhiên.
Ấn Độlà bán đảo lớn ở nam Á, có điều kiện tự nhiên và khí hậu rất phức tạp, địa hình có nhiều núi (Hymalaya ở phía Bắc quanh năm tuyết phủ), nhiều sông (sông Hằng chảy về phía Đông, sông Ấn chảy về phía Tây) với những đồng bằng trù phú; có vùng khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, có vùng sa mạc khô cằn, nóng nực. Tính khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và khí hậu là những thế lực đè nặng lên cuộc sống và ghi dấu ấn đậm nét lên tâm trí người Ấn Độcổ, trung đại.
– Điều kiện kinh tế – xã hội và văn hoá. Xã hội Ấn Độ cổ đại là xã hội mang tính chất công xã nông nghiệp với sự phân chia đẳng cấp hết sức nghiệt ngã. Nền văn hoá Ấn Độ cổ, trung đại thường được chia thành ba giai đoạn chính.
– Giai đoạn từ thế kỷ XV – VIII tr.c.n gọi là nền văn minh sông Ấn hay còn gọi là nền văn minh Vệđà (Véda).
+ Đây là nền văn minh đồ đồng mang tính chất đô thị của một xã hội đã vượt qua trình độ nguyên thuỷ, đang tiến vào giai đoạn đầu của chế độ chiếm hữu nô lệ, trong đó nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thương nghiệp đã đạt tới một trình độ nhất định. Kinh tế bao gồm nông nghiệp, thương nghiệp; nghề dệt bông len, đúc đồng, điêu khắc, gốm sứ tráng men, làm đồ nữ trang phát triển. Thành phố được xây bằng gạch nung. Xã hội đã phân chia giàu, nghèo; xuất hiện chữ viết; thờ Thần Shiva. Đầu thiên niên kỷ II tr.c.n, nền văn minh này lụi tàn nhưng chưa rõ nguyên nhân.
+ Đây là thời kỳ hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ đầu tiên của người Arya ở phía Bắc và cũng là thời kỳ rực rỡ nhất của nền văn minh Ấn Độ cổ đại. Bộ lạc Arya tràn xuống châu thổ sông Hằng. Hình thành nhiều tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của xã hội Ấn Độ cổ đại. Xuất hiện chế độ đẳng cấp dựa trên sự phân biệt về chủng tộc, màu da, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo, quan hệ giao tiếp, tập tục hôn nhân v.v. Tiêu biểu về mặt tư tưởng cho sự phân chia đẳng cấp xã hội là đạo Bàlamôn, quy định cơ cấu xã hội và có ảnh hưởng lớn đến hình thái tư tưởng Ấn Độ cổ đại. Việc phân chia xã hội thành những đẳng cấp với những tính chất khắt khe, nghiệt ngã đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của nông dân, thương nhân, thợ thủ công thành thị, ngăn cản sự phát triển của sản xuất xã hội; dẫn xã hội đến sự bất bình đẳng, tự do gây nên cuộc đấu tranh của các tôn giáo chống lại sự thống trị của Đạo Bàlamôn và Kinh Vệđà.
– Giai đoạn từ thế kỷ VI tr.c.n – VI, là thời kỳ cổ điển, hay còn gọi là thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo. Đây là thời kỳ hình thành các trào lưu triết học tôn giáo lớn của Ấn Độ, gồm hai trường phái lớn đối lập nhau. Trường phái triết học chính thống (thừa nhận uy quyền tuyệt đối của kinh Véda) gồm 6 phái là Sámkhuya, Mimànsa, Vedànta, Yoga, Nyanya và Vaisésika. Trường phái triết học không chính thống (không thừa nhận uy quyền của kinh Véda) gồm 3 trường phái là Jaina giáo, đạo Phật và Lokayàta.
Sự phát triển của các tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại không chỉ gắn liền với việc giải quyết những vấn đề do đời sống xã hội đặt ra mà còn luôn gắn liền với những tiến bộ của khoa học. Ngay từ thời Vệđà khoa học tự nhiên bắt đầu xuất hiện như Thiên văn học (tạo ra lịch pháp, phỏng đoán trái Đất hình cầu và tự quay quanh trục của nó); cuối thế kỷ V tr.c.n đã giải thích được hiện tượng nhật, nguyệt thực; phát minh ra chữ số thập phân; tính được số p; biết được những định luật cơ bản về quan hệ giữa cạnh với đường huyền của tam giác vuông, giải được phương trình bậc 2, 3; y học phát triển (trong kinh Vệđà người ta thấy tên và cách sử dụng nhiều cây thuốc để chữa bệnh); nghệ thuật kiến trúc Ấn Độ để lại phong cách độc đáo, đặc biệt là lối xây dựng Chùa, tháp Phật vừa có ý nghĩa triết học, tôn giáo vừa biểu hiện ý chí, vương quyền. Những năm đầu công nguyên, văn hoá Ấn Độ đã phát triển lên một bước mới do sự giao lưu với Hy Lạp – La Mã và với các nước khác trên thế giới.
– Giai đoạn từ thế kỷ VII – XVIII, là thời kỳ sau cổ điển hay còn gọi là thời kỳ xâm nhập của Hồi giáo.
2. Một số nội dung triết học Ấn Độ cổ, trung đại a. Tư tưởng bản thể luận
+ Từ thế kỷ VII, Đạo Hồi xâm nhập vào Ấn Độ, tạo nên cuộc cạnh tranh ảnh hưởng quyết liệt giữa đạo Phật, đạo Bàlamôn và đạo Hồi.
+ Đạo Phật suy yếu dần, còn đạo Bàlamôn chuyển thành đạo Hinđu vào thế kỷ XII.
– Bản thể luận thần thoại, tôn giáo.
+ Người Ấn Độ cổ đại tạo nên các vị thần có tính tự nhiên. Có những vị tượng trưng cho sức mạnh của lực lượng tự nhiên; có những vị dùng các vị thần để lý giải các hiện tượng xã hội, luân lý, đạo đức. Trong vũ trụ tồn tại thiên giới, trần thế và địa ngục, giữa chúng có mối liên hệ với nhau. Các thần khác nhau là sự thể hiện khác nhau của một Thượng Đế toàn năng duy nhất. Người Ấn Độ cổ đại cúng thần không chỉ vì mê tín, mà còn vì lòng tin; qua biểu tượng các vị thần họ phân tích, lý giải các hiện tượng tự nhiên, sự thay đổi của vũ trụ theo nguyên lý thích hợp (rita) do các thần chi phối.
+ Về sau, quan niệm về các vị thần có tính chất tự nhiên được thay thế bằng Thần sáng tạo tối cao (Brahman) và Tinh thần tối cao (Bahman). Brahman đối lập với thần huỷ diệt Shiva. Shiva đối lập với thần bảo vệ Vishnu. Sáng tạo, huỷ diệt và bảo tồn là ba mặt thống nhất trong quá trình biến hoá của vũ trụ. Như vậy, quá trình hình thành, phát triển tư tưởng triết học tôn giáo đi từ sự giải thích các sự vật, hiện tượng tự nhiên thông qua các vị thần cụ thể tới cái chung, cái bản chất là Thần sáng tạo tối cao hay Tinh thần tối cao và đó là bước chuyển thế giới quan, từ thần thoại tôn giáo sang triết học.
– Tư duy triết học về bản thể luận.
+ Nội dung cơ bản của kinh Upanisad (có tài liệu viết Upanishad có nghĩa là ngồi nghiêm trang để cùng giảng giải lý thuyết cao siêu, huyền bí với thầy) là cơ sở triết lý cho đa số các hệ thống triết học tôn giáo Ấn Độ. Theo đó, Brahman là thực tại đầu tiên, tối cao nhất; là bản nguyên, căn nguyên, là linh hồn, là nguồn sống, là bản chất nội tại của mọi cái. Sự vật, hiện tượng dù đa dạng, phong phú đến mấy, kể cả con người, đều là các dạng của Brahman. Linh hồn con người (Atman) cũng là một bộ phận của Brahman, còn cơ thể (nhục thể) con người là vỏ bọc của linh hồn, nhưng do con người lầm tưởng linh hồn là cái khác với Linh hồn tối cao nên ham muốn dục vọng và hành động để thoả mãn dục vọng đó, gây ra hậu quả, gieo đâu khổ cho kiếp này và kiếp sau (gọi là nghiệp báo). Do vậy, linh hồn cứ bị giam hãm hết trong thể xác này rồi trong thể xác kia, luân hồi mãi mà không trở về với mình là Brahman được. Muốn linh hồn được giải thoát khỏi nghiệp báo, luân hồi; thoát khỏi đời sống nhục dục để quay về với mình là Brahman, con người phải toàn tâm, toàn ý tu luyện hành động và tu luyện tri thức để siêu thoát.
+ Kinh Upanisad chia nhận thức Bản thể tuyệt đối tối cao của vũ trụ thành trình độ nhận thức hạ trí gồm các tri thức khoa học thực nghiệm, ngữ pháp, luật học, bốn tập kinh Vệđà dùng để phản ánh sự vật, hiện tượng hữu hình, hữu hạn; trình độ nhận thức này là phương tiện để đạt tới trình độ nhận thức thượng trí. Trình độ nhận thức thượng trí có thể nhận biết được Brahman và khi đã nhận biết được Brahman, nhận thức được chân tướng của các sự vật, hiện tượng và chân tính của mình thì con người đạt đến giác ngộ, giải thoát
b. Tư tưởng giải thoát của triết học tôn giáo Ấn Độ
Vấn đề cơ bản nhất trong triết học Ấn Độcổ, trung đại là bản chất, ý nghĩa cuộc sống; là nguồn gốc nỗi khổ của con người và con đường, cách thức giải thoát con người khỏi bể khổ. Giải thoát là giải thoát trạng thái tinh thần, tâm lý, đạo đức của con người thoát khỏi sự ràng buộc của thế giới trần tục và nỗi khổ của cuộc đời; giải thoát khỏi luân hồi- nghiệp chướng của con người.
– Cội nguồn của tư tưởng giải thoát là do điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh kinh tế – xã hội quy định; do tính hướng nội, đi sâu khái quát đời sống tâm linh của con người của các nhà tư tưởng Ấn Độcổ, trung đại.
– Trong các trường phái triết học khác nhau, phương tiện, con đường, cách thức có thể khác nhau, nhưng đều có mục đích chung là giải thoát con người khỏi luân hồi- nghiệp chướng.
3. Đặc điểm cơ bản của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
+ Tư tưởng giải thoát manh nha từ thời Rig Vệđà (1500 – 1000 tr.c.n) đến Brahman (1000 – 800 tr.c.n) và phát triển trong kinh Upanisad (800 – 500 tr.c.n) và được các trường phái triết học thời kỳ Bàlamôn – Phật giáo (VI tr.c.n – VI) khai thác. Nội dung triết lý, khuynh hướng giáo lý và quan điểm đạo đức nhân sinh khác nhau, nhưng dường như tất cả các trường phái đều tìm kiếm, phát hiện và trở về với bản chất và lương tâm của chính mình khi con người lãng quên chúng bởi còn vô minh, tham dục.
+ Cách thức và con đường giải thoát của các trường phái triết học khác nhau; Kinh Vệđà tôn thờ và cầu xin sự phù hộ của thần linh; kinh Upanisad đồng nhất giữa linh hồn con người (Atman) với vũ trụ (Brahman); Mimànsa giải thoát bằng nghi thức tế tự và chấp hành nghĩa vụ xã hội, tôn giáo; Yôga giải thoát bằng tu luyện về thể xác; Jaina giải thoát bằng tu luyện đạo đức (không sát sinh, không ăn cắp, không nói dối, không dâm dục, không tham lam); Lokayàta giải thoát bằng cách phủ nhận quan điểm linh hồn bất tử, nghiệp chướng luân hồi, chấp nhận cuộc sống có hạnh phúc và có đau khổ; đạo Phật giải thoát bằng tu luyện trí tuệ, thiền định và tu luyện đạo đức theo giới luật để diệt trừ tham dục, tâm hồn thanh tịnh, hoà nhập vào niết bàn.
Như vậy, tư tưởng giải thoát trong triết học Ấn Độcổ, trung đại thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Tuy mới chỉ giải thoát về mặt tư tưỏng nhưng tư tưởng giải thoát đó đã phản ánh những yêu cầu của đời sống xã hội Ấn Độđương thời.
– Triết học Ấn Độ cổ, trung đại đã lý giải căn nguyên của vũ trụ; các học thuyết kế thừa tư tưởng của nhau, tạo nên những khái niệm, phạm trù triết học – tôn giáo cơ bản, mang tính truyền thống, chịu sự chi phối mạnh mẽ của kinh Vệđà và các tôn giáo lớn của Ấn Độ cổ, trung đại.
– Triết học Ấn Độ cổ, trung đại có nội dung tư tưởng và hình thức đa dạng, phản ánh đời sống xã hội Ấn Độ đương thời; hầu hết các trường phái triết học Ấn Độ cổ, trung đại đều tập trung lý giải bản chất đời sống tâm linh; tìm căn nguyên nỗi khổ của cuộc đời, chỉ ra cách thức, con đường để giải thoát khỏi những nỗi khổ đó.
1. Điều kiện ra đời và phát triển của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
– Triết học Ấn Độ cổ, trung đại được nhân dân Ấn Độ vận dụng và được truyền bá rộng rãi tới nhiều quốc gia trên thế giới.
II. TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ, TRUNG ĐẠI
Trung Quốc là một trong những chiếc nôi văn minh của nhân loại, là trung tâm văn hoá và triết học rực rỡ, phong phú của phương Đông. Sự hình thành và phát triển của các tư tưởng triết học Trung Quốc cổ, trung đại gắn liền với quá trình biến đổi của điều kiện kinh tế – xã hội, văn hoá và sự phát triển của những mầm mống khoa học tự nhiên trong xã hội Trung Quốc qua từng thời kỳ.
– Điều kiện tự nhiên. Trung Quốc cổ, trung đại là một quốc gia rộng lớn, phía Bắc xa biển, khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn; phía Nam có sông Hoàng Hà, Dương Tử, khí hậu thuận lợi; phía Đông là biển với địa hình phức tạp; phía Tây là các dãy núi cao.
– Điều kiện kinh tế – xã hội và văn hoá.
+ Thời Xuân thu (770 – 475 tr.c.n), công cụ lao động và sự phân công lao động đã phát triển khá mạnh; có lưỡi cày bằng sắt và đã dùng bò kéo, thuỷ nông góp phần nâng cao năng suất lao động, chăn nuôi đã tách khỏi tách khỏi trồng trọt; thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển, xuất hiện các nghề mới như luyện kim, đúc, rèn sắt, nhôm, đồ gốm; nông dân vỡ hoang tạo ra nhiều số lượng ruộng tư, quý tộc phong kiến chiếm đoạt đất công tạo ra chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Trung Quốc cổ, trung đại bị chia ra thành các nước Tề, Tấn, Tần, Sở, Tống và về sau thêm Ngô, Việt. Người dân càng đói khổ hơn vì các cuộc chiến tranh đó.
+ Thời Chiến quốc (475 – 221 tr.c.n), công cụ và sự phân công lao động phát triển mạnh hơn. Nghề luyện sắt hưng thịnh; buôn bán phát triển tạo nên những đô thị và các làng xóm bên các bờ sông; các nghề thủ công như đồ gốm, chạm bạc, ươm tơ, dệt lụa và đúc tiền ra đời; các công trình thuỷ lợi được xây dựng nhiều tại các lưu vực sông Hoàng Hà đến Dương Tử. Chế độ tự do mua, bán ruộng đất tạo ra hình thức bóc lột phát canh, thu tô, quan hệ sản xuất nông nô xuất hiện và dần chiếm ưu thế trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn đầy biến động đó của lịch sử Trung Quốc cổ, trung đại, xuất hiện một loạt những vấn đề đặt ra cho các nhà tư tưởng lớn.
b. Quá trình hình thành và phát triển của triết học Trung Quốc cổ, trung đại
– Mầm mống tư tưởng triết học Trung Quốc. Triết học Trung Quốc cổ đại ra đời từ cuối thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I tr.c.n khi xã hội đánh dấu sự tan rã của chế độ nô lệ và bắt đầu hình thành các quan hệ xã hội phong kiến phức tạp. Tính chất phức tạp đó của xã hội được phản ánh trong tính phức tạp của triết học Trung Quốc.
2. Một số nội dung triết học Trung Quốc cổ, trung đại a. Tư tưởng bản thể luận
+ Vào thời Tam đại (Hạ, Thương, Chu, từ thiên niên kỷ II – I tr.c.n), những biểu tượng tôn giáo – triết học xuất hiện với những biểu tượng về Đế, Thượng Đế, Thiên mệnh, Quỷ thần v.v.
+ Đầu thiên niên kỷ I xuất hiện thêm những biểu tượng về Âm dương – Ngũ hành. Cuộc đấu tranh giữa các quan điểm của các trường phái diễn ra xung quanh các biểu tượng đó và diễn ra quanh vấn đề khởi nguyên của thế giới, người sáng lập triết học duy vật Anh), ông coi thế giới vật chất tồn tại khách quan và cho rằng, con người cần phải thống trị, làm chủ tự nhiên với sức mạnh tri thức; coi nhiệm vụ của triết học là nhận thức tự nhiên với các mối liên hệ phức tạp của nó và phê phán chủ nghĩa Kinh viện xa rời cuộc sống, chỉ dựa vào những lập luận tuỳ tiện.
Hốpxơ(1588 – 1679, đại biểu nổi tiếng của chủ nghĩa duy vật Anh) là người chia triết học thành triết học tự nhiên, nghiên cứu các vật thể thiên nhiên và triết học thông thường, nghiên cứu những vật thể nhân tạo (xã hội loài người). Giới tự nhiên là tổng số các vật có quảng tính với những khác biệt về kích thước, hình dáng, vị trí và vận động; trong đó, vận động là sự thay đổi vị trí của vật thể với nguồn gốc là sự tác động của vật thể này lên vật thể khác qua va chạm đầu tiên.
Đềcáctơ(1596 – 1650, nhà toán học và khoa học tự nhiên Pháp, một trong những người sáng lập triết học Cận đại) lại cho rằng có hai loại sự vật được sinh ra từ hai thực thể khác nhau là thực thể tinh thầngồm các ý niệm, tư tưởng, các ý thức cá nhân con người và thực thể vật chất gồm các sự vật trong không gian, thời gian. Con người là một sự vật đặc biệt được tạo ra từ hai thực thể là vật chất (cơ thể) và ý thức (linh hồn). Cả thực thể vật chất và thực thể tinh thần đều do thực thể thứ ba là Thượng Đế sinh ra.
Xpinôda(1632 – 1677, nhà triết học duy vật xuất sắc Hà Lan) cho rằng, giới tự nhiên là Thượng Đế, tự sinh ra có đặc tính tồn tại, có nguồn gốc từ thực thể duy nhất dù thực thể đó là sự vật vật chất hay hiện tượng tinh thần; giữa thực thể với các sự vật có mối quan hệ hữu cơ là tính thống nhất với tính nhiều vẻ của của giới tự nhiên. Thực thể là vô cùng tận về không gian và vĩnh hằng về thời gian; sự vật luôn vận động, biến đổi có sinh ra và mất đi; trong sự tồn tại đã chứa đựng tất yếu suy vong.
Béccly (1685 – 1753, nhà triết học người Anh, đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan) cho rằng, chúng ta có thể nhận thức được sự vật, vì chúng tương đồng với con người. Sự vật có nguồn gốc chủ quan, là hiện thân của cảm tính con người; giới tự nhiên được Béccơly coi là tổ hợp cảm giác của con người. Với luận điểm tồn tại nghĩa là được cảm giác, ông phê phán mọi quan niệm duy vật và cho rằng, tất cả mọi sự vật tạo nên vũ trụ không tồn tại ngoài tinh thần của con người.
– Lý luận nhận thức.
+ Nghi ngờ là xuất phát điểm của triết học Đềcáctơ, ông phê phán tư tưởng của Giáo hội và chủ nghĩa Kinh viện coi toàn bộ các tri thức của con người đã đạt được từ trước tới giờ là hoàn toàn đúng, mà cho rằng phải coi trí tuệ con người là toà án thẩm định lại các tri thức. Nghi ngờ là xuất phát của mọi nhận thức, nghi ngờ để kiểm tra lại, nhận thức lại tri thức để có cơ sở tin tưởng, bởi vậy nghi ngờ cũng là tư duy, suy nghĩ. Luận điểm tôi tư duy vậy là tôi tồn tại của ông chống lại tư tưởng giáo điều, chống giáo lý của Nhà thờ; đề cao vai trò trí tuệ của con người.
+ Xpinôda lại đề cao vai trò của kinh nghiệm bởi cho rằng, kinh nghiệm đem lại sự cảm thụ tính sinh động và đa dạng của các sự vật, đem lại hiểu biết về sự vật đơn lẻ. Ông đánh giá cao vai trò của trực giác bởi nó giúp con người nhận thức được bản chất đích thực của thực thể và coi trực giác là cái khả năng khám phá chân lý và là tiêu chuẩn của nhận thức. Quá trình nhận thức giúp con người khám phá và tuân theo các quy luật của tự nhiên và con người nhờ đó, ngày càng tự do.
+ Béccly coi thế giới là tổ hợp các cảm giác của con người. Sự tồn tại của linh hồn là sự cảm nhận và linh hồn chỉ tồn tại khi nó cảm nhận các sự vật khác. Quá đề cao cảm giác, ông đã đồng nhất toàn bộ các ý niệm của con người với cảm giác; còn chân lý là sự phù hợp của suy diễn về sự vật.
+ Hium cho rằng quá trình nhận thức không phải là nhận thức thế giới, mà là nhận thức những quá trình tâm lý xảy ra trong con người mà ông gọi là những cảm xúc. Nghi ngờ sự tồn tại của thế giới bên ngoài, ông phê phán quan niệm coi vật chất là thực thể của mọi vật mà cho rằng bản thân vật chất, thực thể v.v là tổng thể các ý niệm đơn giản liên kết lại với nhau nhờ sự tưởng tượng. Thực thể, sự vật không tồn tại khách quan, chúng tồn tại trong hư cấu của con người và khoa học là sự mô tả cảm xúc và trạng thái tâm lý của con người.
– Tư tưởng về con người và bản tính con người.
Tiếp tục phát triển tư tưởng nhân đạo thời Phục hưng, các nhà triết học Khai sáng lấy việc truyền bá tri thức tốt đẹp rộng rãi cho mọi người làm nhiệm vụ chính của mình.
+ Đềcáctơ đề cao vai trò của triết học đối với đời sống con người. Theo ông, trình độ phát triển tư duy triết học là tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá mức độ văn minh của con người và sự ưu việt của dân tộc này đối với dân tộc khác. Ông cho rằng triết học theo nghĩa rộng là tổng thể tri thức của con người về nhiều lĩnh vực; theo nghĩa hẹp là siêu hình học được coi như nền tảng của hệ thống thế giới quan. Triết học có hai nhiệm vụ 1) Xây dựng những nguyên lý, phương pháp luận cơ bản làm cơ sở cho các khoa học khám phá ra chân lý và 2) Giúp con người làm chủ và thống trị giới tự nhiên trên cơ sở nhận thức các quy luật của nó.
+ Xpinôda cho rằng con người là một dạng thức bao gồm hai thuộc tính thể xác (quảng tính) linh hồn (ý thức). Con người là một dạng thức của thực thể, là sản phẩm của tự nhiên, mọi hoạt động của con người phải tuân theo quy luật của giới tự nhiên. Linh hồn và thể xác là hai hình thức thể hiện của một thực thể, là hai cách thể hiện nội dung của một thể thống nhất; mọi quan niệm tách rời linh hồn khỏi thể xác và coi linh hồn có nguồn gốc siêu nhiên là sai lầm, là duy tâm.
+ Beccơly cho rằng con người là kết quả kết hợp giữa linh hồn với thể xác. Thể xác thuộc về tự nhiên và tồn tại là nhờ linh hồn cảm nhận; coi sự hoàn thiện tối cao của bản chất con người ở chỗ nhận thức và thực hiện các giáo lý. Béccơly là đại biểu điển hình của chủ nghĩa duy tâm chủ quan thời Cận đại có đóng góp lớn trong phê phán sự hạn chế và bất lực của triết học và khoa học cuối thế kỷ XVII đầu XVIII ở tây Âu.
+ Hium phê phán các quan niệm coi linh hồn con người là một thực thể mà coi con người là sự liên kết hay một chùm các giá trị khác nhau, cái này kế tiếp cái kia nằm trong quá trình biến đổi. Hium nghi ngờ mọi cái mà nhân loại đã đạt được, không tin vào các chuẩn mực đạo đức, truyền thống và nhấn mạnh phải giữ gìn tính hoài nghi luận của mình trong mọi trường hợp của cuộc sống.
– Tư tưởng về đạo đức.
+ Đặc điểm chung của tư tưởng về đạo đức thời Cận đại là dường như quay lại với tư tưởng về đạo đức trong triết học Hy Lạp cổ đại. Các nhà triết học thời Cận đại mong muốn xây dựng mô hình tư tưởng, trong đó liên hiệp và hệ thống hoá những tư tưởng về đạo đức đã có từ thời Cổ đại và Trung cổ.
c. Đặc điểm cơ bản của triết học tây Âu thời Cận đại
+ Tư tưởng về đạo đức của một số nhà triết học tiêu biểu
Hốpxơ gắn đạo đức học với đạo đức về nhà nước và pháp quyền, theo đó con người phải chuyển từ trạng thái tự nhiên sang trạng thái xã hội hay trạng thái nhà nước với lý do là sự ích kỷ và đấu tranh lẫn nhau là là những đặc điểm phổ biến của bản chất con người. Xpinôda coi nhiệm vụ của đạo đức là giúp con người thắng được những lỗi lầm do ham muốn và sùng bái tôn giáo gây ra, theo đó nhiệm vụ của đạo đức là khắc phục được sự nô lệ (những ham muốn), làm chủ được tình cảm, điều khiển được ham muốn để phát triển lành mạnh và có hạnh phúc chân chính.
Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII (còn được gọi là phái Bách khoa toàn thư) chống lại đạo đức tôn giáo và cho rằng, đạo đức không sinh ra cùng với con người mà sinh ra do sự tác động của môi trường xã hội, mà trước hết là môi trường chính trị và pháp luật; do vậy nếu con người muốn đạt đến đạo đức cao cả thì cần thay đổi điều kiện xã hội. Điđrô (1713 – 1784) coi sự thiết tha muốn sống đạo đức là nguyên tắc đạo đức của con người; gắn đạo đức với khoa học tự nhiên, đối lập đạo đức với tôn giáo; lợi ích cá nhân phải được kết hợp hợp lý với lợi ích xã hội. Henvêtiúyt (1715 – 1771) đề xướng thuyết đạo đức trần thế, theo đó hạnh phúc chung là nguồn gốc của đức hạnh, là mục tiêu của luật lệ, phong tục, tập quán; hạnh phúc cá nhân phải kết hợp với hạnh phúc chung. Hônbách (1723 – 1789) khẳng định con người sinh ra vốn không thiện, không ác; mọi lỗi lầm của con người đều do điều kiện xung quanh, chủ yếu là điều kiện chính trị gây nên; sự hiểu biết đúng đắn về lợi ích cá nhân dẫn tới đức hạnh; nhiệm vụ của đạo đức là chỉ ra những điều kiện, trong đó lợi ích cá nhân là cơ sở tất yếu để dung hoà với lợi ích xã hội.
1. Điều kiện ra đời và phát triển của triết học cổ điển Đức
– Triết học tây Âu thời Cận đại được coi là thế giới quan của giai cấp tư sản đang còn cách mạng, tiến bộ. Nhiều luận điểm triết học duy vật được chứng minh bằng các thành tựu của khoa học thực nghiệm (chuyên ngành) tạo nên vị thế của phương pháp siêu hình- là phương pháp chủ yếu trong nhận thức luận triết học thời bấy giờ.
2. Một số nội dung triết học cổ điển Đức a. Tư tưởng về nguồn gốc thế giới
– Triết học tây Âu thời Cận đại đi sâu nghiên cứu vấn đề con người và đã nghiên cứu trong cả mối quan hệ với tự nhiên và cả với chính mình.
IV. TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC
Triết học cổ điển Đức ra đời cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX trong một liên bang phong kiến cát cứ có 360 quốc gia, lạc hậu về kinh tế và chính trị với sự phản kháng của giai cấp tư sản Đức và muốn làm cách mạng tư sản như Hà Lan, Anh, Pháp. Nhưng do nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và chính trị nên giai cấp tư sản Đức vừa muốn làm cách mạng vừa muốn thoả hiệp với tầng lớp phong kiến nên có lập trường cải lương.
Tư tưởng về nguồn gốc thế giới trong triết học cổ điển Đức đầy mâu thuẫn thể hiện ở tính duy tâm, duy vật và nhị nguyên của các nhà triết học tiêu biểu.
– Trong triết học duy tâm khách quan của Hêghen (1770 – 1831), ý niệm tuyệt đối là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên và xã hội.
– Trong triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc (1804 – 1872), thế giới là thế giới vật chất, tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào bất kỳ học thuyết triết học nào, do vậy cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm trong giới tự nhiên.
c. Tư tưởng về con người
Ra đời vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, khởi đầu từ Cantơ qua Phíctơ, Sêlinh và phát triển đến đỉnh cao ở Hêghen, đây là hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ điển Đức.
– Là người sáng lập phép biện chứng cổ điển Đức, những quan điểm biện chứng của Cantơ thể hiện rõ nét ngay từ thời kỳ tiền phê phán (1746 – 1770), theo đó phát triển không những chỉ là trạng thái tự nhiên, mà còn là nguyên lý quan trọng để nhận thức tự nhiên và nguyên lý này phải được vận dụng trong mọi khoa học chuyên ngành.
– Trái lại, phép biện chứng duy tâm của Hêghen thể hiện trong quan điểm của ông về mâu thuẫn; về quy luật lượng – chất; về các phạm trù riêng – chung, bản chất – hiện tượng, nguyên nhân – kết quả v.v. Đặc biệt là quan niệm về sự phát triển, theo đó phát triển được coi là sự tự phát triển của ý niệm tuyệt đối, từ tồn tại đến bản chất, từ bản chất đến khái niệm, trong đó khái niệm vừa là chủ thể, vừa là khách thể, đồng thời là ý niệm tuyệt đối. Hêghen coi phát triển là nguyên lý cơ bản nhất của phép biện chứng với phạm trù trung tâm là tha hoá và khẳng định tha hoá diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và tinh thần.
Trong triết học cổ điển Đức, con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả của quá trình hoạt động của mình và có bản chất xã hội.
d. Tư tưởng về đạo đức
– Tư tưởng về con người trong triết học Cantơ bắt đầu tư tưởng về sự thống nhất của loài người. Sự phát triển của loài người dược ông phân chia thành bốn bước 1) chuyển từ trạng thái động vật sang trạng thái có tính người; từ lệ thuộc vào bản năng sang sự chỉ đạo của lý trí. 2) khi lý trí đã đóng vai trò chủ yếu- mối quan hệ giữa các cá nhân trong xã hội đã do lý trí chỉ đạo; ở con người đã xuất hiện nhu cầu giáo dục. 3) hãy sống cho thế hệ mai sau, tức là sự phát triển hướng tới tương lai. 4) bước phát triển được thực hiện bằng lý trí và từ đây, con người vượt lên con vật. Bản chất hoạt động của con người được thể hiện trong triết học thực tiễn, theo đó con người trong triết học thực tiễn chính là con người đã được bàn tới trong triết học lý luận, bây giờ được nghiên cứu trong trong hoạt động thực tiễn (nghĩa hẹp là hoạt động đạo đức, nghĩa rộng là hoạt động chính trị, lịch sử, pháp luật, văn hoá v.v).
– Hêghen lại coi thế giới vật chất là con người vô cơ, ở giai đoạn chưa hình thành; còn con người bằng xương, bằng thịt là con người đã phát triển đầy đủ, là con người đã trở về với bản thân mình với tất cả những đặc tính vốn có. Con người vừa là chủ thể, vừa là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư duy, trí tuệ con người được hình thành và phát triển khi con người nhận thức và cải biến thế giới đối lập với mình thành thế giới của mình; hoạt động càng phát triển thì ý thức càng mang bản chất xã hội.
– Tư tưởng về con người trong triết học nhân bản của Phoiơbắc được bắt đầu từ quan điểm coi con người là sản phẩm cao nhất của giới tự nhiên và nhận thức con người là nền tảng để nhận thức thế giới và giải quyết vấn đề cơ bản của triết học. Con người là sự thống nhất giữa vật chất và tinh thần; con người sáng tạo ra Thượng Đế; thần thánh là bản chất con người được tinh chế, khách quan hoá, tách rời con người hiện thực, tôn giáo là bản chất con người đã bị tha hoá. Phoiơbắc cho rằng bản chất tự nhiên của con người là hướng tới cái chân, cái thiện, hướng tới cái gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người; những điều kiện , môi trường và hoàn cảnh sốngcó tác động to lớn đối với tư duy và ý thức con người. ở trong cung điện người ta suy nghĩ khác trong túp lều tranh; các thời đại khác nhau là do sự khác nhau của các tôn giáo, muốn thay đổi xã hội cũ bằng một xã hội mới chỉ cần thay đổi tôn giáo cũ bằng tôn giáo mới.
Bước phát triển mới của đạo đức học được thể hiện trong học thuyết đạo đức của các nhà triết học cổ điển Đức.
3. Đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
– Cantơ coi lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý, chuẩn mực đạo đức; còn các khát vọng cảm tính đưa con người đến hưởng thụ cá nhân, ích kỷ, phi đạo đức. Nguyên tắc cơ bản của đạo đức là tuân theo mệnh lệnh tuyệt đối và chỉ khi hành động phù hợp với mệnh lệnh tuyệt đối thì mới được coi là có đạo đức; theo đó mệnh lệnh tuyệt đối là quy định đạo đức chung mà mọi người đều phải thực hiện để tôn trọng mình, tôn trọng người, tôn trọng lẽ phải, tôn trọng sự thật và tiêu chuẩn đánh giá giá trị đạo đức là có lợi cho công dân và xã hội. Phạm trù trung tâm của đạo đức Cantơ là tự do với quan niệm ý chí tự do và ý chí tuân theo các quy luật đạo đức là như nhau.
– Tư tưởng về đạo đức của Hêghen gắn liền với tư tưởng về pháp quyền, đạo đức, gia đình, xã hội công dân và nhà nước trong sự tha hoá của tinh thần đạo đức khách quan. Trong đạo đức học của Hêghen, phạm trù cái thiện và cái ác tồn tại trong những mâu thuẫn nội tại và sự chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng trong những điều kiện cụ thể của quá trình lịch sử. Hai phạm trù ấy thể hiện trọn vẹn ý chí của con người đối với cái toàn năng, thể hiện sự thống nhất giữa đạo đức cá nhân với các quyền lợi chung; nghĩa vụ của đạo đức cao cả là yêu nước, phục tùng nhà nước.
– Tư tưởng về đạo đức của Phơibắc thể hiện trong việc xác định được sự hài hoà giữa nghĩa vụ với hạnh phúc, với các lợi ích của con người. Nguyên tắc cơ bản của đạo đức là sự yêu thương lẫn nhau giữa con người và nguyện vọng tự nhiên muốn có hạnh phúc của nó, trong đó tình yêu có thể khắc phục được bất công xã hội, đau khổ của con người.
1. Điều kiện ra đời và phát triển của triết học phương Tây hiện đại
– Triết học cổ điển Đức có nội dung cách mạng trong hình thức duy tâm, bảo thủ; đề cao vai trò tích cực của tư duy con người; coi con người là th���c thể hoạt động và là nền tảng, điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.
– Phép biện chứng trong triết học cổ điển Đức trở thành phương pháp đối lập với phương pháp siêu hình trong việc nghiên cứu các sự vật, hiện tượng tự nhiên và xã hội.
2. Một số nội dung triết học phương Tây hiện đại a. Triết học duy khoa học
V. MỘT SỐ TRÀO LƯU TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI
b. Triết học nhân bản phi lý tính
– Triết học phương Tây hiện đại là các học trường phái triết học xuất hiện từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Ba khuynh hướng chủ yếu là chủ nghĩa duy khoa học, chủ nghĩa nhân bản phi lý tính và triết học tôn giáo mà chủ nghĩa Tômát mới là tiêu biểu.
c. Triết học tôn giáo
– Triết học phương Tây hiện đại có xu hướng điều hoà mâu thuẫn giữa khoa học với tôn giáo; điều hoà sự tách biệt đối lập giữa chủ nghĩa duy lý với chủ nghĩa nhân bản.
Người sáng lập là Côngtơ, triết học duy khoa học ra đời từ thế kỷ XIX, vào đầu thế kỷ XX. Triết học duy khoa học tồn tại trong hai hình thức là chủ nghĩa thực chứng, hậu thực chứng và chủ nghĩa thực chứng mới.
Người sáng lập là Sôpenhauơ. Triết học nhân bản tồn tại trong ba hình thức là triết học cuộc sống, triết học hiện sinh và triết học Phơrớt.
Điển hình của triết học tôn giáo là chủ nghĩa Tômát mới.
3. Đặc điểm của triết học phương Tây hiện đại
1. Điều kiện kinh tế – xã hội
– Thâm nhập hoặc hoà nhập lẫn nhau giữa các trường phái.
– Thâm nhập vào triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung./.
I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI CỦA TRIẾT HỌC MÁC
2. Tiền đề lý luận
– Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật làm cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thể hiện tính hơn hẳn so với phương thức sản xuất phong kiến. Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng trở nên sâu sắc và gay gắt hơn. Đó là mâu thuẫn giữa tính xã hội của quá trình sản xuất và trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất với hình thức sở hữu tư liệu sản xuất tư nhân; tổ chức, quản lý, phân công lao động và hưởng thụ sản phẩm lao động xã hội bất bình đẳng. Sản phẩm xã hội tăng lên nhưng lý tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái không được thực hiện. Bất công xã hội tăng, đối kháng xã hội thêm sâu sắc. Giai cấp tư sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng trong xã hội.
– Mâu thuẫn giữa vô sản với tư sản, vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Khởi nguồn là cuộc khởi nghĩa của thợ dệt Lyông (1831 và 1834) “đã vạch ra một điều bí mật quan trọng- đó là cuộc đấu tranh bên trong, diễn ra trong xã hội, giữa giai cấp những người có của và giai cấp những kẻ không có gì hết; phong trào Hiến chương ở Anh (1830-1840) là phong trào cách mạng vô sản to lớn đầu tiên, thật sự có tính chất quần chúng và có hình thức chính trị. Giai cấp vô sản xuất hiện với tư cách là một lực lượng chính trị – xã hội với sứ mệnh tiên phong, đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình và tiến hành đấu tranh tự giác chống giai cấp tư sản.
– Thực tiễn cách mạng vô sản nảy sinh nhu cầu khách quan là những vấn đề mà thời đại đặt ra cần phải được soi sáng bằng lý luận khoa học trên lập trường của giai cấp vô sản để giải đáp những vấn đề thực tiễn của thời đại đặt ra. Chủ nghĩa Mác xuất hiện với tính cách là hệ tư tưởng khoa học của giai cấp công nhân, đưa phong trào công nhân từ tự phát lên tự giác vì có lý luận khoa học của mình dẫn đường.
Toàn bộ thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp được những vấn đề mà mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Học thuyết của ông ra đời là sự thừa kế thẳng và trực tiếp những học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất trong triết học, trong kinh tế chính trị học và trong chủ nghĩa xã hội.
3. Tiền đề khoa học tự nhiên
– Phép biện chứng duy tâm của Hêghen là sự phát triển cao với hình thức và nội dung phong phú. Về hình thức, phép biện chứng đó bao quát cả ba lĩnh vực, bắt đầu từ các phạm trù lôgíc thuần tuý đến lĩnh vực tự nhiên, tinh thần và kết thúc bằng biện chứng của toàn bộ quá trình lịch sử. Về nội dung, phép biện chứng đó được chia thành tồn tại, bản chất và khái niệm. Trong đó, Hêghen coi phát triển là nguyên lý cơ bản nhất của phép biện chứng với phạm trù trung tâm là tha hoá và khẳng định tha hoá được diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và tinh thần.
– Phoiơbắc là một trong những nhà duy vật lớn, ông đã chứng minh thế giới là thế giới vật chất; cơ sở tồn tại của giới tự nhiên chính là giới tự nhiên không do ai sáng tạo ra và tồn tại độc lập với ý thức. Tư duy, ý thức con người là sự phản ánh của dạng vật chất tổ chức cao về thế giới. Khi phát triển lý luận nhận thức duy vật, Phoiơbắc đã dựa vào thực tiễn để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con người và xã hội. Con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, phi lịch sử, mang những thuộc tính sinh học bẩm sinh nên chứa đựng nhiều yếu tố của chủ nghĩa duy tâm.
– C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa bằng cách cải tạo, lột bỏ cái vỏ thần bí để xây dựng nên phép biện chứng duy vật. Giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính siêu hình, các ông đã làm cho nó trở nên hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người, chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng nhân loại.
Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát minh quan trọng và với những phát minh đó, khoa học đã cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng vượt lên tính tự phát của phép biện chứng cổ đại, thoát khỏi tính thần bí của phép biện chứng duy tâm và trở thành khoa học.
– Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượngcủa các nhà khoa học tự nhiên chứng tỏ lực cơ học, nhiệt, ánh sáng, điện tử, các quá trình hoá học không tách rời nhau, mà liên hệ với nhau và hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định, chúng chuyển hoá cho nhau mà không mất đi, chỉ có sự chuyển hoá không ngừng của năng lượng từ dạng này sang dạng khác. Định luật đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động của chúng.
1. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen a. Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và lập trường dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và lập trường cộng sản chủ nghĩa (1842 – 1844)
– Thuyết tế bào chứng minh rằng, tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển chung của thực vật và động vật. Bản chất sự phát triển của chúng đều nằm trong sự hình thành và phát triển của tế bào. Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; đặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ nền sinh học; phá bỏ quan niệm siêu hình về mặt nguồn gốc và hình thức giữa giới thực vật với động vật.
II. NHỮNG GIAI ĐOẠN CHỦ YẾU TRONG SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
– Giới thiệu C.Mác và Ph.Ăngghen. C.Mác là con một nhà quý phái, Ph.Ăngghen là con một nhà tư bản, nhưng hai ông đã hoàn toàn dâng mình cho cách mạng và trở thành những người sáng lập chủ nghĩa cộng sản.
+ Tên đầy đủ của C.Mác là Karl Henrix Marx, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 tại Tơria, tỉnh Ranh, nước Đức trong một gia đình luật sư người Do thái có tư tưởng khai sáng và tự do; từ trần ngày 14 tháng 3 năm 1883, an táng tại nghĩa trang Khaighết, Luân Đôn, Anh.
+ Ph.Ăngghen sinh ngày 28 tháng 11 năm 1820 tại Bácmen, tỉnh Ranh, nướcĐức trong một gia đình tư bản công nghiệp dệt bảo thủ về tư tưởng; từ trần ngày mùng 5 tháng 8 năm 1895 tại Luân Đôn, Anh. Theo nguyện vọng của Ph.Ăngghen, sau khi hoả táng, tro thi hài được thả xuống eo biển gần Ixtôbôrn, phía Nam bờ nước Anh.
– Giới thiệu bước đầu hoạt động chính trị – xã hội và khoa học của C.Mác và Ph. Ăngghen.
Khuynh hướng tư tưởng, chính trị của C.Mác thời niên thiếu chịu ảnh hưởng của môi trường sống, tư tưởng duy lý và chủ nghĩa tự do về tôn giáo; hoạt động chính trị của người cha và ảnh hưởng của một số giáo viên có tư tưởng dân chủ. Năm 1837, C.Mác làm quen với triết học Hêghen, tham gia phái Hêghen trẻ. Năm 1841, C.Mác nhận học vị tiến sỹ triết học với luận án Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Êpiquya với triết học tự nhiên của Đêmôcrít tại trường Đại học Tổng hợp Iêna.
Sự chuyển biến tư tưởng có nội dung hơn và sự chuyển biến thế giới quan triết học ở C.Mác bước đầu chỉ thực sự diễn ratrong thực tiễn đấu tranh thông qua báo chí, trong thời kỳ ông làm việc ở báo Sông Ranh (5/1842-4/1843). Chính trong thực tiễn này mà C.Mác nhận thức được những mối quan hệ vật chất của đời sống xã hội, tạo ra sự chú ý đến vai trò của lợi ích kinh tế và sở hữu; nhận thức đầy đủ hơn về những hạn chế của triết học Hêghen, tính phản động, bảo thủ của nhà nước Phổ. Đụng chạm đến những mâu thuẫn thực tế của xã hội, với những vấn đề về kinh tế, C.Mác viết những bài báo như Nhận xét bản chỉ thị mới nhất về chế độ kiểm duyệt của Phổ, Tuyên ngôn triết học của trường phái lịch sử pháp quyền, Những cuộc tranh luận về luật cấm trộm củi rừng, mà ngược lại, xã hội công dân quy định nhà nước. Việc làm nổi bật vai trò quyết định của mối quan hệ vật chất đối với sự phát triển của lịch sử đã mở ra con đường khắc phục quan niệm duy tâm của Hêghen về xã hội, làm tăng xu hướng duy vật trong tư tưởng và là điểm xuất phát nhận thức duy vật về lịch sử của C.Mác trong tương lai.
Tháng 9 năm 1841, trong thời gian làm nghĩa vụ quân sự tại Béclinh, Ph.Ăngghen tự học ở các trường đại học và tham gia phái Hêghen trẻ, chịu ảnh hưởng sâu sắc Bản chất đạo Cơ đốc của Phoiơbắc. Những tác phẩm của Ph.Ăngghen thời kỳ 1841 – 1842 như Sêlinh nói về Hêghen (1841), Sêlinh- nhà triết học trong Kitô, hoặc việc cải biến đạo lý thế tục thành đạo lý thần thánh (1842) v.v, cho thấy tuy vẫn đứng trên lập trường duy tâm của triết học Hêghen, nhưng ông đã nhận ra mâu thuẫn giữa tính cách mạng với tính bảo thủ trong triết học ấy, đồng thời thấy tính triệt để hơn trong triết học Phoiơbắc. Từ mùa Thu 1842, trong thời gian sống gần hai năm ở Mansextơ (Anh), việc nghiên cứu đời sống kinh tế và sự phát triển chính trị của nước Anh, nhất là việc trực tiếp tham gia phong trào công nhân mới dẫn ông đến bước chuyển biến căn bản trong thế giới quan và lập trường chính trị.
– Giới thiệu sự chuyển biến từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Các tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen; Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen. Lời nói đầu; Lập trường của các chính đảng; Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh; Lược thảo phê phán khoa kinh tế chính trị đánh dấu sự chuyển biến hoàn toàn từ chủ nghĩa duy tâm và lập trường dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và lập trường cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và Ph.Ăngghen.
b. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử (1844-1848)
Các tác phẩm Bản thảo kinh tế – triết học năm 1844; Gia đình thần thánh; Luận cương về Phoiơbắc; Hệ tư tưởng Đức; Sự khốn cùng của triết học và Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu chủ nghĩa Mác đã được trình bày chỉnh thể với các quan điểm lý luận nền tảng của ba bộ phận hợp thành, thể hiện từng bước sự đề xuất, khẳng định vai trò của triết học trong đời sống xã hội.
c. Giai đoạn C.Mác và Ph.Ăngghen bổ sung, phát triển lý luận triết học (1848-1895)
– Các tác phẩm Đấu tranh giai cấp ở Pháp; Ngày 18 tháng Sương mù của Lui Bônapáctơ; Cách mạng và phản cách mạng ở Đức; Tư bản; Nội chiến ở Pháp; Phê phán Cương lĩnh Gôta; Chống Đuyrinh; Biện chứng của tự nhiên; Nguồn gốc và gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước; Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức thể hiện sự bổ sung và phát triển toàn diện những vấn đề triết học, kinh tế chính trị và chủ nghĩa xã hội khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen, tạo nên chủ nghĩa Mác hoàn chỉnh.
– Giới thiệu khái quát tác phẩm Chống Đuyrinh.
+ Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
Chống Đuyrinh là tên gọi đã đi vào lịch sử các tác phẩm kinh điển chủ nghĩa Mác của Cuộc đảo lộn trong khoa học do Ngài Ơghênhi Đuyrinh thực hiện của Ph.Ăngghen và C.Mác. Tác phẩm được viết không chỉ vì sự cấp bách về lý luận, mà còn vì sự cấp bách về chính trị. Năm 1875, Đuyrinh đã viết một loạt bài công kích gay gắt chủ nghĩa Mác. Sự công kích đó đã làm ảnh hưởng tới niềm tin của một bộ phận thành viên của đảng xã hội – dân chủ Đức. Tác phẩm chống lại những tư tưởng tầm thường, hỗn độn và chiết trung trong triết học duy vật siêu hình, thực chứng và duy tâm, thể hiện trong các hình thức khác nhau của chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản của Đuyrinh. Đó là hoàn cảnh ra đời của một tác phẩm bút chiến mãnh liệt về hình thức, có tính từ điển bách khoa về nội dung.
Năm 1880, theo đề nghị của Lapharg, Ph.Ăngghen chỉnh lý lại 3 chương của Chống Đuyrinh và phổ biến dưới dạng bản thảo Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học. Đây là một trong những tác phẩm được phổ biến rộng rãi nhất trong những tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác. Năm 1892, Ph.Ăngghen viết Lời mở đầu cho lần xuất bản bằng tiếng Anh và bằng tiếng Đức, xuất bản dưới tên gọi Về chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Cấu trúc của tác phẩm. Tương xứng với ba thành phần cấu thành chủ nghĩa Mác, Chống Đuyrinh được cấu thành, ngoài Lời nói đầu, từ ba bộ phận chính gồm Triết học; Kinh tế chính trị học và Chủ nghĩa xã hội khoa học.
+ Nội dung cơ bản của tác phẩm
Tư tưởng chính của tác phẩm là cuộc đấu tranh vì sự triệt để của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Theo V.L.Lênin, hoặc là chủ nghĩa duy vật đến cùng, hoặc là sự dối trá và sự lộn xộn của triết học chủ nghĩa duy tâm,- đó là vấn đề được đưa ra trong từng mục của Chống Đuyrinh.
* Vấn đề về thế giới quan duy vật trong tác phẩm. Giải quyết biện chứng và duy vật triệt để vấn đề cơ bản của triết học.
# Phê phán quan điểm duy tâm của Đuyrinh cho rằng những nguyên lý được rút ra từ tư duy chứ không phải được từ thế giới khách quan; những nguyên lý hình thức phải được ứng dụng vào giới tự nhiên và loài người và do vậy, giới tự nhiên và loài người phải phù hợp với chúng. Ph.Ăngghen khẳng định ý thức là sản phẩm của não người, còn con người lại là sản phẩm của tự nhiên. Tư duy là sự phản ánh của tồn tại. Bởi vậy, những quy luật của tư duy và những quy luật của tự nhiên phối hợp, điều hoà với nhau. Ngay cả những định lý và các khái niệm của toán học cũng được trừu tượng hoá từ thế giới hiện thực (chương 3). Khả năng của nhận thức thì không có giới hạn, chính quá trình nhận thức cũng vô hạn; chân lý tuyệt đối có được nhờ thực hiện một loạt chân lý tương đối không giới hạn (chương 3 và 9).
# Phê phán tư tưởng của Đuyrinh quy tính tồn tại của thế giới vào tính thống nhất của thế giới, Ph.Ăngghen cho rằng sự thống nhất của thế giới nằm ở tính vật chất của nó, còn tính tồn tại là tiền đề của tính vật chất (chương 4). Tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó và tính chất này được chứng minh không phải chỉ bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng một sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên.
# Phê phán quan điểm siêu hình quy vận động vào lực cơ học và coi đó là hình thức cơ bản của vận động của Đuyrinh, Ph.Ăngghen cho rằng, vật chất không có vận động thì cũng không có ý nghĩa như vận động không có vật chất. Bởi vậy, vận động không thể mất đi và cũng không thể bị triệt tiêu- giống như vật chất (chương 6). Các hình thức khác nhau của vận động (cơ học, vật lý, hoá học, sinh học) là đối tượng nghiên cứu của các môn khoa học khác nhau (chương 6-7).
# Ph.Ăngghen khẳng định vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất; không gian và thời gian gắn liền với vật chất vận động và cũng vô cùng, vô tận như vật chất vận động. Thế giới là vô cùng vô tận trong không gian và thời gian và không gian và thời gian là những hình thức chính của tồn tại (chương 5). Cái vĩnh viễn trong thời gian, cái vô tận trong không gian … là ở chỗ, … không có điểm tận cùng về một phía nào cả, cả ở đằng trước lẫn đằng sau, cả ở trên lẫn ở dưới, cả ở bên phải lẫn bên trái.
* Tư tưởng về phép biện chứng duy vật trong tác phẩm.
# Phép biện chứng duy vật hình thành và phát triển từ giới tự nhiên và lịch sử và trở thành công cụ để nhận thức giới tự nhiên và lịch sử.
# Bản chất của phép biện chứng.
Định nghĩa phép biện chứng. Phép biện chứng là khoa học về mối liên hệ phổ biến … là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy
Bản chất của phép biện chứng thể hiện ở chỗ, nó nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ và sự phát triển trong tính hệ thống, trong quá trình vận động theo khuynh hướng tiến lên.
Phép biện chứng đối lập với phép siêu hình (xem chương VI).
# Hệ thống các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Sự phát triển của tư duy trong việc phản ánh hiện thực khách quan được thể hiện thông qua hệ thống các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Quy luật quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chỉ ra nguyên nhân của sự vận động là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập; giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự vận động, phát triển.
Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Bản chất của quy luật thể hiện trong mối quan hệ giữa chất với lượng trong thế giới khách quan.
Quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng, hình thức và kết quả phát triển của sự vật, hiện tượng. Trải qua một số lần phủ định, sự vật, hiện tượng dường như lặp lại những giai đoạn đã qua trên cơ sở mới, cao hơn và như vậy, phát triển không theo đường thẳng, mà theo đường xoáy ốc, mỗi vòng tròn kế tiếp dường như lặp lại vòng tròn trước đó, nhưng trên cơ sở cao hơn.
* Vấn đề về nhận thức luận trong tác phẩm.
# Định nghĩa tư duy. Tư duy con người là sự phản ánh của thế giới khách quan vào bộ não con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
# Quá trình tương đối và tuyệt đối của tư duy; nhận thức vừa vô hạn, vừa có hạn. Tuyệt đối (tối cao) và vô hạn của tư duy khi xét theo bản tính, khả năng và mục đích cuối cùng; tương đối (không tuyệt đối) và có hạn của tư duy khi xét theo sự thực hiện riêng biệt và thực tế trong mỗi thời điểm nhất định.
# Nhận thức chân lý là một quá trình lịch sử từ thấp đến cao, từ đơn giải đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn, phụ thuộc vào mối quan hệ giữa chủ thể với khách thể nhận thức và vào điều kiện, hoàn cảnh mà chủ thể nhận thức chụi ảnh hưởng; vì vậy không thể có chân lý bất biến, tuyệt đỉnh cuối cùng như Đuyrinh quan niệm và quan niệm đó của Đuyrinh chỉ dẫn đến chủ nghĩa duy tâm và siêu hình về nhận thức.
* Quan điểm duy vật về lịch sử và tư tưởng về chủ nghĩa xã hội trong tác phẩm.
# Bác bỏ quan điểm của Đuyrinh coi bạo lực và chiến tranh là cơ sở hình thành các giai cấp trong xã hội, Ph.Ăngghen cho rằng điều kiện kinh tế – xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất và chế độ sở hữu mới là cơ sở trong việc hình thành các giai cấp.
# Thông qua việc phê phán chủ nghĩa xã hội không tưởng của Ximông và Phuriê đã không dựa vào điều kiện kinh tế – xã hội, mà chỉ dựa vào ý thức xã hội, lịch sử và pháp quyền để xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội, Ph.Ăngghen bác bỏ quan điểm của Đuyrinh về chân lý đạo đức và pháp quyền vĩnh cửu vượt qua mọi giai đoạn lịch sử của mỗi dân tộc và thời đại khác nhau.
# Đánh giá sự phát triển của triết học trong mối liên hệ thống nhất giữa triết học với khoa học. Ph.Ăngghen cho rằng, khi đó, triết học trở thành thế giới quan và thế giới quan đó không cần phải được chứng thực và thể hiện trong một khoa học đặc biệt nào đó, đứng trên các khoa học, mà được chứng thực và thể hiện trong các khoa học hiện thực.
– Ý nghĩa của tác phẩm
+ Chống Đuyrinh là tác phẩm tổng kết toàn diện sự phát triển của chủ nghĩa Mác; trình bày hoàn chỉnh thế giới quan duy vật biện chứng về triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học; đấu tranh chống lại các quan điểm đối lập.
+ Với Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen đã tham gia trực tiếp vào các cuộc tranh luận về thế giới quan và chính trị trong phong trào công nhân Đức lúc bấy giờ và góp phần quyết định vào thắng lợi của chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân.
– Giới thiệu khái quát tác phẩm Biện chứng của tự nhiên
+ Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm
* Là tác phẩm của Ph.Ăngghen, viết gián đoạn trong 13 năm, từ 1873 đến 1886, trong đó ông nêu quan niệm nhận thức duy vật biện chứng về giới tự nhiên và những vấn đề quan trọng nhất của lý luận khoa học tự nhiên. Biện chứng của tự nhiên là tác phẩm chưa hoàn thành, chúng ta có được tác phẩm này chỉ trong dạng 2 bản thảo với trên dưới 10 chương riêng rẽ; các bài viết và 185 ghi chép, đoạn trích. Biện chứng của tự nhiên lần đầu tiên được xuất bản bằng tiếng Đức và tiếng Nga tại Liênxô năm 1925.
* Cấu trúc của tác phẩm dựa vào 2 bản thảo do Ph.Ăngghen viết tháng 8 năm 1878 và được chia thành 11 vấn đề; tập hợp thành 3 nhóm. 1) Triết học trong khoa học tự nhiên (vấn đề 1-3). 2) Phân chia khoa học và nội dung biện chứng của các khoa học chuyên ngành (vấn đề 4-5). 3) Phê phán thuyết bất khả tri, chủ nghĩa duy tâm và siêu hình trong khoa học tự nhiên (vấn đề 6-11).
Nội dung thực tế của tác phẩm không hoàn toàn trùng khớp với các nhóm, tuy vậy, về tổng thể, phù hợp với thiết kế nội dung, đặc biệt là các trích dẫn ở phần cuối. Lần xuất bản mới nhất, miêu tả chính xác theo trật tự thời gian tất cả các phần của bản thảo được in bằng tiếng Nga trong tập 26, Phần 1 của C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập vào năm 1985, ngôn ngữ MEGA.
– Nội dung cơ bản của tác phẩm
+ Tư tưởng tập trung của tác phẩm là vật chất và vận động của vật chất.
* Tác phẩm chỉ ra tính thống nhất vật chất của thế giới trong sự đa dạng và khác biệt về chất và lượng thông qua mối liên hệ, chuyển hoá trong quá trình vận động đi lên đa dạng và phong phú trong tính hệ thống và chỉnh thể.
* Định nghĩa vận động của vật chất. Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kwr từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy.
* Phân loại các hình thức vận động cơ bản của vật chất, trong đó đứng im là vận động trong cân bằng, là tương đối và tạm thời của một tổ chức cụ thể nào đó.
# Các hình thức vận động cơ bản của vật chất đều do bản chất của những vật thể đang vận động mà ra; gồm vận động cơ giới của các khối lượng, vận động vật lý của các phân tử, vận động hoá học của các nguyên tử và dự đoán về sự vận động của trường điện tử (về sau trong các hình thức vận động còn bổ sung thêm hình thức vận động sinh học và vận động xã hội).
# Mối quan hệ giữa các hình thức vận động cơ bản của vật chất là mối quan hệ biện chứng, theo đó trong những điều kiện nhất định, các hình thức vận động cơ bản có thể chuyển hoá cho nhau, từ hình thức này sang hình thức khác và trong quá trình đó, lượng của một hình thái vận động bao giờ cũng tương ứng với một lượng chính xác nhất định của hình thái vận động khác. Như vậy, muốn nhận thức được vật chất thì phải thông qua sự vận động của nó bởi thuộc tính của vật chất chỉ thể hiện qua vận động.
+ Tư tưởng về phép biện chứng trong tác phẩm.
* Về vai trò đối với tư duy lý luận của lịch sử phép biện chứng, Ph.Ăngghen cho rằng chỉ có phép biện chứng mới có thể đem lại sự tương đồng và do đó đem lại phương pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong tự nhiên, giải thích những mối liên hệ phổ biến, những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang một lĩnh vực nghiên cứu khác. Tuy vậy, trong lịch sử triết học chỉ có Arítxtốt và Hêghen là đã nghiên cứu chính xác về phép biện chứng.
* Hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm của Hêghen thể hiện ở chỗ, ông là người đầu tiên trình bày bao quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép biện chứng; chỉ có điều, phép biện chứng của Hêghen bị lộn ngược đầu xuống đất, chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái nhân hợp lý của nó.
* Biện chứng khách quan của giới tự nhiên đóng vai trò quy định đối với biện chứng chủ quan của tư duy con người.
* Vai trò của tư duy biện chứng đối với khoa học; và vai trò đó làm nên mối liên hệ thống nhất giữa triết học với khoa học tự nhiên.
# Khoa học tự nhiên đặt cơ sở cho những khái quát phổ biến của triết học, còn những khái quát triết học lại trở thành phương pháp luận cho khoa học tự nhiên đi sâu nghiên cứu thế giới khách quan.
# Mối liên hệ giữa các hình thức vận động của vật chất với khoa học tự nhiên.
+ Tư tưởng về sự sống và nguồn gốc con người trong tác phẩm.
* Quá trình phát triển của thế giới tự nhiên là nguồn gốc của sự sống, nguồn gốc của sự hình thành con người và lịch sử xã hội loài người.
* Quá trình phát triển đạt đến mức cao nhất của thế giới tự nhiên là sự hình thành con người và xã hội loài người.
# Nguồn gốc của sự sống bắt nguồn từ các quá trình hoá học và sinh học.
# Vai trò quyết định của lao động trong quá trình chuyển hoá từ vượn thành người.
– ý nghĩa của tác phẩm
+ Biện chứng của tự nhiên là thí dụ điển hình về sự vận dụng phương pháp biện chứng duy vật vào việc giải quyết những vấn đề của tự nhiên và lịch sử; là thí dụ điển hình về sự khái quát triết học những thành tựu của khoa học tự nhiên.
a. Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng
+ Biện chứng của tự nhiên thể hiện phép biện chứng duy vật và những quy luật cơ bản của nó có giá trị phổ biến; là cơ sở lý luận và phương pháp nhận thức của các ngành khoa học.
2. Thực chất cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện
b. Sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật lịch sử
Sự ra đời của triết học Mác là cuộc cách mạng trong triết học, thể hiện ở
– Trong lịch sử triết học duy vật, chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng tách rời nhau; chủ nghĩa duy vật trước Mác bị hạn chế bởi tính trực quan và siêu hình; phép biện chứng trước Mác bị hạn chế bởi tính siêu hình và duy tâm.
c. Sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
– Trong triết học Mác, chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng thống nhất với nhau tạo nên học thuyết hoàn chỉnh.Học thuyết đó cung cấp cho loài người công cụ nhận thức vĩ đại, làm cho chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ dừng lại ở phương pháp giải thích, nhận thức thế giới, mà còn trở thành phương pháp cải tạo thế giới.
d. Sự thống nhất giữa tính khoa học với tính cách mạng
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng mở rộng nhận thức từ giới tự nhiên sang nhận thức xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để.
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng coi xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên, là một tổ chức vật chất trong trạng thái biến đổi và phát triển không ngừng từ hình thái thấp lên hình thái cao hơn; sự phát triển đó tuân theo quy luật khách quan như một quá trình lịch sử – tự nhiên và trong sự phát triển đó, quần chúng nhân dân đóng vai trò quyết định.
Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là một trong những nguyên tắc cơ bản của triết học Mác – Lênin (xem chương VII); nguyên tắc đó đã khắc phục sự đối lập giữa triết học với hoạt động thực tiễn của con người.
đ. Xác định đúng mối quan hệ giữa triết học với các khoa học chuyên ngành
Bản chất khoa học đã bao hàm tính cách mạng của triết học Mác, phản ánh bản chất của giai cấp công nhân.
– Tính khoa học của triết học Mác thể hiện ở chỗ, triết học đó đã xây dựng nên thế giới quan duy vật biện chứng khoa học và triệt để. Với tư cách là thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung nhất của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, tính khoa học của triết học Mác còn thể hiện ở khả năng khái quát sáng tạo những hiện tượng mới nẩy sinh trong quá trình cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và do vậy, triết học Mác có khả năng phát triển vô tận.
3. Ý nghĩa cuộc cách mạng trong triết học do C.Mác và Ph.Ăngghen thực hiện
– Tính cách mạng của triết học Mác thể hiện ở chỗ, khi đưa ra quan niệm về tính hợp lý của hiện thực đang tồn tại đã bao hàm cả quan niệm về sự diệt vong tất yếu của nó do nguyên nhân giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng; quá trình tích luỹ dần về lượng khi đến độ, gặp điều kiện chín muồi, tất yếu sẽ dẫn đến sự tự phủ định, làm cho sự vật, hiện tượng phát triển theo đường xoáy ốc lên giai đoạn mới, tiến bộ hơn về chất.
– Ph.Ăngghen cho rằng, cứ mỗi lần có một phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật phải thay đổi hình thức của nó. Những phát minh của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XIX là một trong những tiền đề cho sự ra đời của triết học Mác và triết học Mác đã làm biến đổi căn bản tính chất, đối tượng của triết học và mối quan hệ của nó đối với các khoa học chuyên ngành.
4. V.I.Lênin phát triển triết học Mác a. Hoàn cảnh lịch sử
– C.Mác và Ph.Ăngghen đã xác định đúng giới hạn và mối quan hệ mới giữa triết học với các khoa học chuyên ngành. Triết học Mác không nghiên cứu những vấn đề cụ thể và cũng không đóng vai trò khoa học của mọi khoa học, mà là thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung nhất cho sự phát triển của các khoa học đó.
– Làm cho chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học.
– Vai trò xã hội của triết học cũng như vị trí, chức năng của triết học trong hệ thống tri thức khoa học cũng thay đổi. Triết học Mác trở thành công cụ giải thích, nhận thức và cải tạo thế giới.
– Chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa làm tăng thêm khả năng kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa; mặt khác sự áp bức, bóc lột biểu hiện gay gắt hơn. Xu hướng thống nhất giữa phong trào giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản; giữa nhân dân các nước thuộc địa với giai cấp công nhân ở chính quốc thể hiện trong các hình thức và mức độ khác nhau.
b. Nội dung cơ bản của quá trình V.I.Lênin phát triển triết học Mác
– Khoa học tự nhiên phát triển mạnh với những thành tựu mới, nhưng những khái quát triết học về chúng chưa dựa trên thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật, tạo nên sự đối lập giữa các dữ liệu của khoa học tự nhiên với các khái quát triết học, điển hình là cuộc khủng hoảng vật lý đầu thế kỷ XX.
– Nhiều khuynh hướng triết học như chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa xét lại trong Quốc tế Cộng sản II v.v tấn công nhằm phủ định chủ nghĩa Mác để quay lại với chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo.
– Chủ nghĩa xã hội trở thành hiện thực ở nước Nga. Trải qua các cuộc cách mạng dân chủ – tư sản 1905 – 1907 và cách mạng Tháng Hai năm 1917, vào tháng 10 (Nga) năm 1917, Cách mạng xã hội chủ nghĩa thắng lợi, tạo nên nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới; mở ra thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
– Giai đoạn từ 1893 đến 1907, V.I.Lênin nghiên cứu thể chế xã hội Nga và vai trò của các giai cấp khác nhau trong cuộc cách mạng đang tới gần; phê phán mọi hệ thống quan điểm duy tâm và phương pháp siêu hình của những người dân tuý.
+ Plêkhanốp và nhóm Giải phóng lao động, tuy truyền bá chủ nghĩa Mác vào nước Nga nhưng mắc sai lầm trong đấu tranh chống phái dân tuý; coi giai cấp tư sản tự do là giai cấp cách mạng.
+ Để đấu tranh chống lại quan điểm đó, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, V.I. Lênin viết một số tác phẩm như Những người bạn dân là thế nào và họ đấu tranh chống những người dân chủ – xã hội ra sao? Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và sự phê phán trong cuốn sách của ông Xtơruvê về nội dung đó; Làm gì? Hai sách lược của đảng dân chủ – xã hội trong cách mạng dân chủ v.v.
– Giai đoạn từ 1907 đến Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.
+ Tiếp tục đấu tranh chống các tư tưởng đối lập, bảo vệ và phát triển triết học Mác; xác lập thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật cho giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản.
+ Các tác phẩm Một bước tiến hai bước lùi; Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán với định nghĩa về vật chất; Bút ký triết học với sự phát triển nội dung của triết học duy vật biện chứng, đặc biệt là phép biện chứng duy vật; Nhà nước và cách mạng với vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là nhà nước và nêu ra con đường để giai cấp vô sản xác lập nhà nước chuyên chính vô sản. Trong những năm 1914 – 1916, V.I.Lênin tóm tắt tác phẩm Khoa học Lôgíc và phần một của Từ điển bách khoa toàn thư về khoa học triết học, Những bài giảng về lịch sử triết học và Những bài giảng về triết học lịch sử của Hêghen, một số tác phẩm của Phoiơbắc và Lắcxan, Siêu hình học của Arítxtốt và các tác phẩm khác theo chuyên ngành triết học và khoa học tự nhiên vào 8 quyển và đặt tên là Bút ký triết học.
5. Triết học Mác – Lênin trong thời đại ngày nay a. Những biến đổi của thời đại
– Giai đoạn sau Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga từ 1917 đến 1924.
+ V.I.Lênin tiếp tục phát triển chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử thông qua các tác phẩm cơ bản như Sáng kiến vĩ đại; Bệnh ấu trĩ “tả khuynh” trong phong trào cộng sản; Về Chính sách kinh tế mới; Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu v.v. Sáng kiến vĩ đại với định nghĩa về giai cấp; Về tác dụng của chủ nghĩa duy vật chiến đấu v.v.
+ Để bảo vệ chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin không chỉ phê phán đối với kẻ thù, mà còn kịch liệt phê phán những người nhân danh lý luận Mác trên lời nói, nhưng trên thực tế là chủ nghĩa xét lại, hoặc đã xa rời chủ nghĩa Mác. Để bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin đã tổng kết kinh nghiệm thực tiễn cách mạng và dựa vào những thành quả mới của khoa học, tạo nên giai đoạn Lênin trong lịch sử triết học mácxít. Di sản triết học của V.I.Lênin trở thành cơ sở cho việc nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn; thiên tài về lý luận và thực tiễn của V.I.Lênin được những người cộng sản đánh giá cao. Họ đặt tên cho chủ nghĩa của mình là chủ nghĩa Mác – Lênin.
– Thời đại ngày nay được xác định từ Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 đến nay, trong thời đại này lịch sử thế giới đã xẩy ra những thay đổi lớn lao trên tất cả các mặt kinh tế – chính trị, văn hoá – xã hội.
– Sự tác động giữa hai quá trình cách mạng xã hội và cách mạng khoa học, công nghệ tạo nên sự biến đổi nhanh chóng và phức tạp.
b. Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác – Lênin trong thời đại ngày nay
CHƯƠNG V. CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG- CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC PGS. TS. Vũ Tình, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
– Thể hiện trong vai trò thế giới quan khoa học và phương pháp luận cách mạng của triết học Mác – Lênin trong việc vận dụng và phát triển chúng của các đảng cộng sản với các bổ sung từ điều kiện lịch sử của thời đại.
1. Thế giới quan và các hình thức cơ bản của thế giới quan a. Khái niệm thế giới quan
– Thể hiện trong vai trò định hướng nhận thức và thực tiễn mục tiêu của xã hội loài người; giải quyết theo quy luật những vấn đề do thời đại đặt ra.
– Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận./.
I. THẾ GIỚI QUAN VÀ THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
– Định nghĩa. Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới ấy.
– Nguồn gốc của thế giới quan. Thế giới quan ra đời từ thực tiễn cuộc sống; là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức, nhưng suy đến cùng, thế giới quan là kết quả của cả hoạt động thực tiễn với hoạt động nhận thức, của mối quan hệ giữa khách thể nhận thức với chủ thể nhận thức.
– Nội dung phản ánh của thế giới quan. Thế giới quan phản ánh thế giới từ ba góc độ 1) Các khách thể nhận thức. 2) Bản thân chủ thể nhận thức. 3) Mối quan hệ giữa khách thể với chủ thể nhận thức. Ba góc độ này của thế giới quan vừa thể hiện ý thức của con người về thế giới, vừa thể hiện ý thức của con người về chính bản thân mình.
– Hình thức biểu hiện của thế giới quan có thể là các quan điểm, quan niệm rời rạc, cũng có thể là hệ thống lý luận chặt chẽ.
b. Những hình thức cơ bản của thế giới quan
– Cấu trúc của thế giới quan gồm hai yếu tố cơ bản là và , trong đó tri thức là cơ sở trực tiếp cho sự hình thành thế giới quan; song tri thức chỉ gia nhập vào thế giới quan khi đã trở thành niềm tin để hình thành lý tưởng, động cơ hoạt động của con người.
– Một thế giới quan thống nhất giữa tri thức với niềm tin có vai trò là cơ sở để con người xác định những vấn đề then chốt của cuộc sống như tiếp tục tìm hiểu thế giới; xác định thái độ, cách thức hoạt động, lối sống nói riêng và nhân sinh quan nói chung.
– Các chức năng cơ bản của thế giới quan là chức năng nhận thức; chức năng nhận định, đánh giá; chức năng xác lập giá trị và chức năng điều chỉnh hành vi v.v thể hiện chức năng cơ bản nhất của thế giới quan là chức năng định hướng cho mọi hoạt động sống của con người.
– Thế giới quan huyền thoại có nội dung pha trộn giữa thực với ảo, giữa người với thần đặc trưng cho tư duy nguyên thuỷ giải thích các lực lượng tự nhiên trong tưởng tượng và nhờ trí tưởng tượng.
– Thế giới quan tôn giáo có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của lực lượng siêu nhiên đối với thế giới, đối với con người, được thể hiện qua các hoạt động có tổ chức để suy tôn, sùng bái lực lượng siêu nhiên ấy. Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế. Đặc trưng chủ yếu của thế giới quan tôn giáo là niềm tin vào một thế giới khác hoàn mỹ làm giảm nỗi khổ trần gian.
2. Thế giới quan duy vật và lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật a. Thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật
– Thế giới quan triết học thể hiện bằng hệ thống lý luận thông qua các khái niệm, phạm trù, quy luật. Thế giới quan triết học không chỉ nêu ra các quan điểm, quan niệm của con người về thế giới, mà còn chứng minh chúng bằng lý luận. Triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là bộ phận quan trọng nhất của triết học bởi vì nó chi phối các quan điểm, quan niệm còn lại của thế giới quan như quan điểm, quan niệm về đạo đức, thẩm mỹ, kinh tế, chính trị, văn hoá v.v.
– Thế giới quan duy vật triết học và thế giới quan duy tâm triết học là hai hình thức của thế giới quan triết học (xem cách giải quyết mặt thứ nhất vấn đề cơ bản của triết học).
– Thế giới quan khoa học và thế giới quan phản khoa học. Thế giới quan khoa học phản ánh thế giới và định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người trên cơ sở tổng kết những thành tựu của nghiên cứu, thực nghiệm và dự báo khoa học. Thế giới quan khoa học không ngừng được bổ sung và hoàn thiện và phát triển; thông qua hoạt động thực tiễn của con người, thế giới quan khoa học được hiện thực hoá, trở thành sức mạnh vật chất. Thế giới quan phản khoa học, ngược lại do không phản ánh đúng bản chất của thế giới nên dễ làm cho con người rơi và thế giới quan duy tâm.
– Thế giới quan duy tâm.
+ Định nghĩa. Thế giới quan duy tâm thừa nhận bản chất thế giới là tinh thần và thừa nhận vai trò quy định của các yếu tố tinh thần đối với thế giới vật chất nói chung, đối với con người và xã hội loài người nói riêng.
+ Các hình thức của thế giới quan duy tâm được hình thành bởi các quan niệm khác nhau về tinh thần, ý thức của những người có thế giới quan này; nếu tinh thần, ý thức của con người tạo nên thế giới quan duy tâm chủ quan, còn tinh thần, ý thức ở bên ngoài con người tạo nên thế giới quan duy tâm chủ quan. Cấp độ của thế giới quan duy tâm phụ thuộc vào trình độ nhận thức của con người; có cấp độ thế giới quan thô sơ, tôn giáo hay triết học.
+ Giá trị và hạn chế của thế giới quan duy tâm.
– Thế giới quan duy vật.
+ Định nghĩa. Thế giới quan duy vật thừa nhận bản chất thế giới là vật chất và thừa nhận vai trò quy định của các vật chất đối với tinh thần, ý thức nói chung, đối với con người và xã hội loài người nói riêng.
b. Lịch sử phát triển của thế giới quan duy vật
– Giá trị của thế giới quan duy vật.
– Cơ sở để phân biệt giữa thế giới quan duy tâm với thế giới quan duy vật là xem thế giới quan đó quan niệm về vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa chúng như thế nào.
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến qua điện thoại gọi: 1900.6162
– Thế giới quan duy vật chất phác.
+ Thừa nhận bản chất của thế giới là vật chất, nhưng quy vật chất nói chung vào một hay một số dạng cụ thể đầu tiên sản sinh ra vũ trụ. Trong triết học phương Đông và phương Tây, chất đầu tiên ấy là những vật thể cụ thể như ngũ hành Trung Quốc), Anu (Nyaya), đất, nước, lửa, không khí v.v (Lokayata), nước (Talét), apeyrôn (Anaximan), lửa (Hêraclít), nguyên tử (Đêmôcrít, Lơxíp) v.v. Con người được tạo nên từ âm dương, ngũ hành, là sản phẩm của khí, là sự kết hợp của các nguyên tử v.v.
+ Hạn chế và giá trị của thế giới quan duy vật chất phác.
Nhận thức mang nặng tính trực quan, phỏng đoán. Đồng nhất chất hay một số chất với vật chất. Duy vật không triệt để. Chỉ giải thích thế giới mà chưa cải tạo thế giới.
Thế giới quan duy vật cổ đại đánh dấu bước chuyển từ dựa vào thần linh sang dựa vào tự nhiên để giải thích thế giới. Là cơ sở và đã đặt ra nhiều vấn đề để thế giới quan duy vật ở các giai đoạn sau tiếp tục hoàn thiện, phát triển.
– Thế giới quan duy vật siêu hình.
+ Thế giới quan duy vật siêu hình xuất hiện từ thời cổ đại với đặc điểm tuyệt đối hoá mặt vận động, phát triển hay tuyệt đối hoá mặt tĩnh tại, đứng im của sự vật, hiện tượng trong thế giới.
+ Thế giới quan duy vật siêu hình thể hiện rõ nét vào thế kỷ XVII – XVIII. Do sự phát triển của khoa học chuyên ngành còn hạn chế; chỉ coi các định luật cơ học là duy nhất đúng với hoạt động nhận thức; tuyệt đối hoá phương pháp phân tích để tách cái toàn thể thành cái bộ phận để nghiên cứu và chính phương pháp đó đã mang lại những thành tựu to lớn trong những lĩnh vực cụ thể nên hầu hết các nhà triết học tây Âu thời kỳ này chịu ảnh hưởng của phương phán tư duy này. Thế giới quan duy vật siêu hình coi thế giới do vô số những sự vật cụ thể tồn tại cạnh nhau trong không gian trống rỗng, vô tận.
+ Hạn chế và giá trị của thế giới quan duy vật siêu hình.
Tư duy máy móc, không nhận thức được thế giới là kết quả của quá trình phát triển của vật chất trong các mối liên hệ phức tạp, đa dạng và trong trạng thái vận động không ngừng. Chống thế giới quan duy tâm, tôn giáo. Trong những lĩnh vực hẹp, cụ thể thế giới quan duy vật siêu hình góp phần giúp đạt hiệu quả cao.
– Thế giới quan duy vật biện chứng
+ Nguồn gốc của thế giới quan duy vật biện chứng
1. Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Kế thừa tinh hoa các quan điểm duy vật về thế giới trong các học thuyết triết học trước đó. Sử dụng các thành tựu khoa học tự nhiên để chứng minh những mối liên hệ tồn tại trong bản thân giới tự nhiên; chuyển khoa học từ kinh nghiệm sang khoa học lý luận. Tổng kết các sự kiện diễn ra ở các nước tây Âu, khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển và bộc lộ những mặt mạnh, mặt hạn chế của nó.
a. Quan điểm duy vật về thế giới
+ Nội dung, bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng đem lại bức tranh trung thực về thế giới; giúp định hướng, tạo phương pháp tư duy khoa học để nhận thức và cải tạo thế giới
II. NỘI DUNG, BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỚI TƯ CÁCH LÀ HẠT NHÂN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
Nội dung, bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng có thể tóm tắt vào tư tưởng cơ bản là chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất; trong thế giới ấy, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quy định ý thức, nhưng ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
– Bản chất của thế giới là vật chất; thế giới thống nhất ở tính vật chất và vật chất là thực tại khách quan, tồn tại độc lập, quy định ý thức và được ý thức phản ánh.
– Thế giới thống nhất ở tính vật chất.
+ Vật chất là thực tại khách quan; tồn tại độc lập với ý thức, quy định ý thức và được ý thức phản ánh. Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Thế giới đó tồn tại khách quan, vĩnh viễn và vô tận.
b. Quan điểm duy vật về xã hội
+ Mọi sự vật, hiện tượng trên thế giới đều là những dạng cụ thể, hoặc là các tính chất của vật chất. Thế giới không có gì khác ngoài vật chất đang vận động.
+ Các sự vật, hiện tượng của thế giới vật chất thống nhất với nhau; vận động và phát triển theo các quy luật khách quan, chuyển hoá lẫn nhau; là nguồn gốc và là nguyên nhân và kết quả của nhau.
+ Ý thức là đặc tính, là sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người.
Xã hội là tổng hợp những con người hiện thực cùng tất cả các hoạt động, các quan hệ của họ. Sự phát triển của xã hội loài người do sự phát triển của vật chất quy định.
– Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên dẫn đến sự ra đời của con người và xã hội loài người. Tính đặc thù của xã hội thể hiện ở chỗ, xã hội vận động, phát triển tuân theo những quy luật tự nhiên nhưng phải thông qua hoạt động có ý thức của con người đang theo đuổi những mục đích nhất định.
– Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội. Xã hội loài người không chỉ sử dụng những thứ đã có sẵn trong tự nhiên, mà còn tác động vào tự nhiên để tạo ra của cải vật chất nhằm tồn tại và phát triển. Lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội gắn liền với lịch sử phát triển của sản xuất vật chất.
– Sản xuất vật chất trong từng giai đoạn lịch sử được tiến hành theo phương thức nhất định. Phương thức sản xuất (lĩnh vực sản xuất vật chất của đời sống xã hội) quy định và sự thay đổi phương thức sản xuất dẫn đến sự thay đổi các lĩnh vực khác (lĩnh vực xã hội; lĩnh vực chính trị; lĩnh vực tinh thần) của đời sống xã hội.
– Tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội. Trong quá trình tồn tại và phát triển, mọi hoạt động của con người gắn với phương thức sản xuất; điều kiện tự nhiên; môi trường địa lý; dân số và mật độ dân số v.v tạo nên điều kiện sinh hoạt vật chất (tồn tại xã hội). Với tính cách là cái thứ nhất, tồn tại xã hội quy định cái thứ hai, mặt tinh thần của quá trình lịch sử. Ý thức xã hội là hiện tượng tinh thần có cấu trúc gồm các cấp độ khác nhau (ý thức bình thường và ý thức lý luận, hệ tư tưởng và tâm lý xã hội) và các hình thái của ý thức xã hội (chính trị, pháp luật, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, triết học và khoa học v.v).
– Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử – tự nhiên.
+ Mỗi xã hội cụ thể trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể là mỗi hình thái kinh tế – xã hội; mỗi hình thái kinh tế – xã hội gồm ba mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất (tạo nên cơ sở hạ tầng) và kiến trúc thượng tầng.
+ Trong quá trình sản xuất, lực lượng sản xuất thường phát triển; đến mức độ nhất định, quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp với sự phát triển mới của lực lượng sản xuất; lúc này cơ sở hạ tầng (mặt vật chất, kinh tế) của xã hội sẽ thay đổi theo dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng (mặt tư tưởng, chính trị). Đến đây, tất cả các mặt cơ bản của hình thái kinh tế – xã hội đã thay đổi, hình thái kinh tế – xã hội này đã chuyển sang hình thái kinh tế – xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn.
+ Như vậy, là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên (thế giới vật chất), sự vận động, phát triển của xã hội vừa chịu sự chi phối của của các quy luật chung nhất, vừa chịu sự chi phối của các quy luật của riêng mình mà trước hết và quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng. Những quy luật đó làm sự thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế-xã hội là quá trình lịch sử-tự nhiên.
– Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng.
2. Bản chất của thế giới quan duy vật biện chứng
+ Khẳng định sản xuất vật chất là yếu tố quy định sự tồn tại và phát triển của xã hội; phương thức sản xuất quy định dời sống tinh thần và sự phát triển của xã hội loài người là quá trình lịch sử – tự nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng đồng thời đã khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử.
+ Vai trò đó của quần chúng nhân dân thể hiện ở 1) quần chúng nhân dân là lực lượng trực tiếp của sản xuất vật chất. 2) quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. 3) quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra các giá trị văn hoá tinh thần.
+ Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, chủ nghĩa duy vật biện chứng cũng đánh giá cao vai trò của lãnh tụ trong 1) nắm bắt xu thế của thời đại. 2) định hướng chiến lược, sách lược cho hành động cách mạng. 3) tổ chức, thuyết phục, giáo dục, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng để giải quyết những vấn đề mà thời đại đặt ra.
a. Giải quyết đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên quan điểm thực tiễn
– Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất với ý thức, chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối hoá ý thức, khẳng định ý thức sinh ra và quy định vật chất, còn chủ nghĩa duy vật trước Mác tuy khẳng định bản chất thế giới là vật chất, nhưng mắc hai hạn chế cơ bản là duy vật không triệt để (duy vật về tự nhiên, duy tâm về xã hội) và cũng không thấy được sự tác động ngược trở lại của ý thức đối với vật chất. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên, nhưng nguyên nhân cơ bản và chủ yếu là thiếu quan điểm thực tiễn.
b. Sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phép biện chứng
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng với việc giải quyết mối quan hệ giữa vật chất với ý thức.
+ Vật chất là cái thứ nhất, ý thức là cái thứ hai; vật chất quy định ý thức. Ý thức không chỉ phản ánh thế giới vật chất, mà còn sáng tạo ra thế giới vật chất; ý thức có tác động ngược lại, trở thành lực lượng vật chất khi thâm nhập vào quần chúng.
+ Thực tiễn, là mắt khâu trung gian trong mối quan hệ giữa ý thức với vật chất. Thông qua hoạt động thực tiễn, ý thức được vật chất hoá; tư tưởng trở thành hiện thực.
c. Quan niệm duy vật triệt để
– Việc tách rời thế giới quan duy vật với phép biện chứng làm cho các nhà triết học trước Mác không nhận thức được mối liên hệ phổ biến; không nhận thức sự thống nhất và nối tiếp nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới vật chất.
– Kế thừa những hạt nhân hợp lý của các học thuyết triết học trước đó; tổng kết những thành tựu của khoa học đương thời, C.Mác và Ph.Ăngghen đã giải thoát thế giới quan duy vật khỏi tính siêu hình; giải thoát phép biện chứng khỏi tính duy tâm, tư biện để sáng lập nên chủ nghĩa duy vật biện chứng- kết quả của sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng.
– Sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật với phép biện chứng đã đem lại quan niệm mới về thế giới- thế giới luôn vận động, biến đổi, chuyển hoá và phát triển không ngừng.
d. Tính thực tiễn – cách mạng
– Hạn chế của các nhà duy vật trước Mác về lịch sử tạo nên tính không triệt để của các học thuyết triết học duy vật trước Mác.
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng khắc phục hạn chế về tính không triệt để của các học thuyết triết học duy vật trước Mác bằng cách khẳng định nguồn gốc vật chất của xã hội (xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên); sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội; phương thức sản xuất quy định quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung; tồn tại xã hội quy định ý thức xã hội; sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử – tự nhiên; quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng v.v.
– Do vậy, chủ nghĩa duy vật biện chứng là thành tựu vĩ đại của tư tưởng khoa học; là cuộc cách mạng trong quan niệm về xã hội; là công cụ vĩ đại trong nhận thức và cải tạo thế giới.
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản, là công cụ định hướng cho hành động, là vũ khí lý luận tạo bước chuyển biến mới về chất của phong trào công nhân từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác.
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới, mà còn đóng vai trò cải tạo thế giới.
+ Bất kỳ học thuyết triết học nào cũng không trực tiếp làm thay đổi được thế giới, mà phải thông qua tri thức của mình về thế giới, con người hình thành mục đích, phương hướng, biện pháp v.v chỉ đạo hoạt động tác động vào thế giới.
+ Bất kỳ học thuyết triết học nào cũng giải thích thế giới, nhưng để thực hiện vai trò cải tạo thế giới, triết học phải phản ánh đúng thế giới, phải định hướng cho hoạt động của con người hợp quy luật khách quan và phải được quần chúng tin và hành động theo.
+ Sức mạnh cải tạo thế giới của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện trong sự định hướng cho hoạt động của quần chúng được quần chúng hành động theo.
– Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tất thắng của cái mới.
Tôn trọng quy luật khách quan; phát huy tính năng động chủ quan
+ Trong tính hợp lý của cái đang tồn tại đã bao hàm cả quan niệm về sự diệt vong tất yếu của nó. Tính cách mạng của chủ nghĩa duy vật biện chứng thể hiện qua sự phản ánh đúng đắn các quy luật chi phối sự vận động và phát triển; qua đó khẳng định tính tất yếu của quá trình xoá bỏ cái lỗi thời, xác lập cái mới cao hơn, tiến bộ hơn.
+ Chủ nghĩa duy vật biện chứng không phải là giáo điều mà là sự định hư��ng cho mọi hoạt động. Là hệ thống mở, nên chủ nghĩa duy vật biện chứng cần được bổ sung, phát triển trên nền tảng của hoạt động thực tiễn và hoạt động nhận thức để tạo ra những nguyên tắc phương pháp luận mà sự vận dụng sáng tạo trong những hoàn cảnh cụ thể là yêu cầu số một của những nguyên tắc ấy.
III. NHỮNG NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VÀ VIỆC VẬN DỤNG NÓ VÀO SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CHƯƠNG VI. PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT – PHƯƠNG PHÁP LUẬN NHẬN THỨC KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN TS. Nguyễn Thái Sơn, Đại học Quốc gia Hà Nội
– Mục đích, đường lối, chủ trương đặt ra không được xuất phát từ ý muốn chủ quan mà phải xuất phát từ hiện thực, phản ánh nhu cầu chín muồi và tính tất yếu của đời sống vật chất trong từng giai đoạn cụ thể. Khi đã có mục đích, đường lối, chủ trương đúng; phải tổ chức lực lượng vật chất để thực hiện nó.
1. Siêu hình và biện chứng; khái quát lịch sử phát triển của biện chứng a. Siêu hình và biện chứng
– Nguyên tắc khách quan đòi hỏi phát huy tính năng động chủ quan, tính sáng tạo của ý thức, của con người. Tôn trọng tri thức khoa học, lý luận phản ánh đúng thế giới khách quan, từ đó tạo khả năng xác định và hình thành được mục đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Chống thái độ thụ động, ỷ lại và bảo thủ, trì trệ; và chú ý vai trò của lợi ích bởi nếu phù hợp sẽ thúc đẩy, ngược lại, sẽ cản trở thậm chí cố tình bóp méo, xuyên tạc chân lý. Chống bệnh chủ quan, duy ý chí, lối nghĩ đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan. Căn bệnh này xuất hiện chủ yếu là do thiếu kiến thức, lý luận hoặc kém, hoặc lạc hậu; ít kinh nghiệm.
Tôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan vừa có ý nghĩa phương pháp luận cơ bản, vừa là yêu cầu có tính nguyên tắc trong hoạt động thực tiễn./.
I. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
– Thuật ngữ siêu hình
+ Nguồn gốc của phép siêu hình. Thuật ngữ Siêu hình có gốc từ tiếng Hy Lạp metaphysique (với nghĩa là những gì theo sau vật lý học). Trong triết học Mác – Lênin, phép siêu hình được dùng theo nghĩa là phương pháp xem xét sự vật, hiện tượng và sự phản ánh chúng tồn tại trong trạng thái biệt lập, nằm ngoài mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác và không biến đổi. Phép siêu hình xuất phát từ chỗ, muốn nhận thức được một sự vật, hiện tượng, trước hết phải tách sự vật, hiện tượng ấy ra khỏi những mối liên hệ của nó khỏi các sự vật, hiện tượng khác và nhận thức nó ở trạng thái không biến đổi trong một không gian và thời gian xác định.
+ Đặc điểm của phép siêu hình là tính một chiều, tuyệt đối hoá mặt này hay mặt kia, coi thế giới thống nhất là bức tranh không vận động, không phát triển. Các nhà siêu hình chỉ dựa trên những phản đề tuyệt đối không thể dung hoà được; có là có, không là không; hoặc tồn tại hoặc không tồn tại; sự vật, hiện tượng không thể vừa là chính nó lại vừa là cái khác nó; cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ lẫn nhau.
+ Giá trị, hạn chế của phép siêu hình. Do quan niệm như vậy nên phép siêu hình chỉ có khả năng nghiên cứu cái riêng, nghiên cứu từng lĩnh vực biệt lập; phủ nhận các khâu trung gian, chuyển hoá; do đó kết quả nghiên cứu chỉ đi tới kết luận hoặc là thế này, hoặc là thế kia, phiến diện, không phản ánh đúng bản chất của sự vật, hiện tượng; không có khả năng phát hiện cái chung, cái có tính quy luật tác động trong các lĩnh vực mà các môn khoa học độc lập đã nghiên cứu. Từ giữa thế kỷ XVIII, cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên và nhận thức của con người, việc nghiên cứu thế giới từ giai đoạn sưu tầm, phân tích, thu thập tri thức về các sự vật, hiện tượng riêng lẻ, tách rời, không vận động chuyển sang giai đoạn tổng quát, nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng thì phép siêu hình không còn đáp ứng được yêu cầu của nhận thức khoa học và bị phép biện chứng phủ định.
b. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng
– Thuật ngữ biện chứng
+ Thuật ngữ Biện chứng có gốc từ tiếng Hy Lạp dialektikê (với nghĩa là nghệ thuật đàm thoại, tranh luận); theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của đối phương, bảo vệ lập luận của mình. Trong lịch sử triết học đã tồn tại ba hình thức của phép biện chứng là phép biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại, phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức và phép biện chứng duy vật.
+ Đặc điểm của phép biện chứng duy vật là khẳng định các sự vật, hiện tượng tồn tại trong mối liên hệ qua lại, quy định, chuyển hoá lẫn nhau, do đó tư duy biện chứng không chỉ thấy các sự vật, hiện tượng cá biệt, mà còn thấy những các mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng; không chỉ thấy sự tồn tại, mà còn thấy cả sự sinh thành và sự tiêu vong, không chỉ thấy trạng thái tĩnh, mà còn thấy cả trạng thái động của chúng; không chỉ thấy cây, mà còn thấy cả rừng. Phép biện chứng duy vật mềm dẻo, linh hoạt, thừa nhận trong những trường hợp cần thiết, bên cạnh cái hoặc là … hoặc là, còn có cả cái vừa là … vừa là. Do vậy, phép biện chứng duy vật là bước nhảy mới về chất trong lĩnh vực nhận thức; khắc phục được những hạn chế của phép biện chứng cổ đại, đẩy lùi phép siêu hình, cải tạo phép biện chứng duy tâm và trở thành phương pháp luận chung nhất của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
– Phép biện chứng mộc mạc, chất phác thời cổ đại.
+ Phép biện chứng trong triết học Ấn Độ, Trung Quốc và Hy Lạp cổ đại.
Trong Đạo Phật những quan niệm duy vật và biện chứng thể hiện trong quan niệm về tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật tuân theo tính tất định và phổ biến của luật nhân – quả. Trong triết học Trung Quốc cổ, trung đại, những quan niệm biện chứng được thể hiện trong thuyết Âm – Dương, Ngũ hành, Đạo gia v.v. Các nhà biện chứng Hêraclít, Xôcrát, Platôn, Arixtốt với những tư tưởng vận động, biến đổi của thế giới vật chất đều là những nhà biện chứng bẩm sinh, tự phát tiêu biểu của triết học Hy Lạp cổ đại.
+ Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại là tính tự phát, ngây thơ; mới chỉ là những quan điểm biện chứng mang tính suy luận, phỏng đoán trên cơ sở những kinh nghiệm trực giác nên chưa trở thành hệ thống lý luận nhận thức, mà mới chỉ dừng lại ở sự mô tả tính biện chứng của thế giới. Cho dù còn hạn chế, nhưng phép biện chứng cổ đại coi thế giới là một chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ phận của thế giới có mối liên hệ qua lại, thâm nhập, tác động và quy định lẫn nhau và đó là cơ sở để phép biện chứng phát triển.
– Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức.
+ Tư tưởng biện chứng cơ bản trong triết học Cantơ, Phíchtơ, Sêlinh.
Ra đời vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức là hình thức thứ hai của phép biện chứng.
Trong triết học nhị nguyên của Cantơ, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về sự thống nhất giữa các mặt đối lập, theo đó, sự thống nhất và thâm nhập lẫn nhau của các mặt đối lập (lực hút và lực đẩy) là động lực của sự vận động, phát triển và động lực đó có trước vật chất; vận động tách rời vật chất. Trong triết học duy tâm chủ quan của Phíchtơ, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng cho rằng, mâu thuẫn là nguồn gốc của sự phát triển. Mâu thuẫn và phát triển chỉ tồn tại trong ý thức, mâu thuẫn thể hiện sự vận động tiến bộ của tư duy trong quá trình nhận thức. Trong triết học duy tâm khách quan của Sêlinh, tư tưởng biện chứng cơ bản là tư tưởng về mối liên hệ phổ biến, về sự thống nhất và về sự phát triển; tư tưởng về sự thống nhất biện chứng của tự nhiên, về sự đấu tranh giữa các mặt đối lập trong tự nhiên.
+ Phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Trong triết học Hêghen, phép biện chứng duy tâm được phát triển đến đỉnh cao với hình thức và nội dung phong phú.
Về hình thức, phép biện chứng của Hêghen đã bao quát cả ba lĩnh vực, bắt đầu từ các phạm trù lôgíc đến lĩnh vực tự nhiên, tinh thần và kết thúc bằng biện chứng của toàn bộ quá trình lịch sử.
Về nội dung, Hêghen chia phép biện chứng thành tồn tại, bản chất và khái niệm. 1) Tồn tại là cái vỏ bên ngoài, trực tiếp, nông nhất mà con người có thể cảm giác và được cụ thể hoá trong các phạm trù chất, lượng và độ. 2) Bản chất là tầng gián tiếp của thế giới, không thể nhận biết được bằng cảm giác, tồn tại trong mâu thuẫn đối lập với chính mình và được thể hiện trong các phạm trù hiện tượng – bản chất, hình thức – nội dung, ngẫu nhiên – tất yếu, khả năng – hiện thức v.v. 3) Còn khái niệm (mà hiện thân của nó là giới hữu cơ, sự sống) là sự thống nhất giữa tồn tại với bản chất, là cái vừa trực tiếp (có thể cảm giác được), vừa gián tiếp (không thể cảm giác được) và được thể hiện trong các phạm trù cái phổ quát, cái đặc thù, cái đơn nhất. Phép biện chứng trong giai đoạn này là sự phát triển; là sự chuyển hoá từ cái trừu tượng đến cái cụ thể, từ chất này sang chất khác được thực hiện nhờ giải quyết mâu thuẫn. Phát triển được coi là sự tự phát triển của ý niệm tuyệt đối, từ tồn tại đến bản chất, từ bản chất đến khái niệm, trong đó khái niệm vừa là chủ thể, vừa là khách thể, đồng thời là ý niệm tuyệt đối. Hêghen coi phát triển là nguyên lý cơ bản nhất của phép biện chứng với phạm trù trung tâm là tha hoá và khẳng định tha hoá được diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và tinh thần.
+ Hạn chế của phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức là nó còn mắc phải hạn chế vì đó là biện chứng của cái phi vật chất, là biện chứng của khái niệm, của tư duy thuần tuý, phản ánh một lực lượng thần bí nào đó ở bên ngoài thế giới vật chất.
+ Cống hiến của phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức là họ đã áp dụng phép biện chứng vào nghiên cứu các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội và qua đó đã xây dựng được hệ thống phạm trù, quy luật có lôgíc chặt chẽ của nhận thức tinh thần, và trong một ý nghĩa nào đó, là của cả hiện thực vật chất. Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã tạo ra bước quá độ chuyển biến về thế giới quan và lập trường từ chủ nghĩa duy vật siêu hình sang thế giới quan khoa học duy vật biện chứng.
Tuy nhiên, với những hạn chế của phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức, khi khoa học tự nhiên phát triển sang giai đoạn tổng quát, nghiên cứu quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, hiện tượng trên quan điểm duy vật, thì tất yếu nó sẽ bị phủ định và thay thế bằng phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật a. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật – Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật
– Phép biện chứng duy vật.
+ Định nghĩa phép biện chứng duy vật. phép biện chứng (…) là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy. Có thể hiểu phép biện chứng duy vật là học thuyết về các quy luật chung nhất của mối liên hệ hình thành, phát triển của tồn tại (tính thứ nhất) với tư duy của con người (tính thứ hai). Lý luận về phương pháp tư duy được xây dựng trên học thuyết đó
+ Đặc điểm và khái quát vai trò của phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp biện chứng; giữa lý luận nhận thức với lôgíc biện chứng. Mỗi nguyên lý của phép biện chứng duy vật đều được xây dựng trên lập trường duy vật; mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật là kết quả của sự nghiên cứu, được rút ra từ giới tự nhiên và trong lịch sử xã hội loài người; mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng đều được luận giải trên cơ sở khoa học và được chuẩn bị bằng toàn bộ sự phát triển của tự nhiên học trước đó. Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự giác, tạo ra chức năng phương pháp luận chung nhất, định hướng hoạt động lý luận và thực tiễn, giúp con người đề ra những nguyên tắc tương ứng và là một hình thức tư duy quan trọng nhất đối với khoa học tự nhiên hiện đại, bởi vì chỉ có nó mới có thể đem lại sự loại suy (analogie) và do đó đem lại phương pháp giải thích những quá trình phát triển diễn ra trong thế giới tự nhiên, giải thích những mối quan hệ chung, những bước quá độ từ một lĩnh vực nghiên cứu này sang một lĩnh vực nghiên cứu khác.
+ Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến là phạm trù triết học dùng để khái quát sự quy định, tác động qua lại, chuyển hoá và tách biệt nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
+ Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới, theo đó, các sự vật, hiện tượng trong thế giới dù đa dạng, khác nhau đến thế nào đi chăng nữa, thì chúng cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất. Ngay cả ý thức của con người cũng chỉ là thuộc tính của dạng vật chất có tổ chức cao và nội dung của ý thức cũng chỉ là kết quả của sự phản ánh hiện thực khách quan vào não người.
– Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật.
+ Nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến nói lên rằng, các sự vật, hiện tượng hay các mặt, bộ phận trong một sự vật, hiện tượng tồn tại trong mối quan hệ quy định, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau và bản chất của sự vật, hiện tượng thể hiện qua mối liên hệ đó. Do vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát được toàn cảnh thế giới trong những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn của thế giới khách quan, tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến và được quy định bằng nhiều mối liên hệ có hình thức, vai trò khác nhau.
+ Các mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, phong phú. Các tính chất đó của mối liên hệ phổ biến phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới đa dạng.
+ Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn (xem nguyên tắc toàn diện ở cuối chương).
b. Các cặp phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật
+ Khái niệm sự phát triển. Phát triển là quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn; nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng và giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự phát triển; phát triển vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt đi theo đường xoáy ốc, dường như lặp lại sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển.
+ Tính chất của sự phát triển. Phát triển có tính khách quan; tính phổ biến; tính kế thừa và tính đa dạng, phong phú. Các tính chất đó của sự phát triển phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới đa dạng.
+ Từ nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn (xem nguyên tắc phát triển ở cuối chương).
– Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
+ Các phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
+ Mối liên hệ giữa các phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
+ Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữa các phạm trù cái riêng, cái chung và cái đơn nhất.
– Nguyên nhân và kết quả.
+ Các phạm trù nguyên nhân và kết quả.
+ Mối liên hệ giữa các phạm trù nguyên nhân và kết quả.
+ Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữa các phạm trù nguyên nhân và kết quả.
– Tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
+ Mối liên hệ giữa các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
+ Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữa các phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên.
– Nội dung và hình thức
+ Các phạm trù nội dung và hình thức.
+ Mối liên hệ giữa các phạm trù nội dung và hình thức.
+ Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữa các phạm trù nội dung và hình thức.
– Bản chất và hiện tượng
+ Các phạm trù bản chất và hiện tượng.
+ Mối liên hệ giữa các phạm trù bản chất và hiện tượng.
+ Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữa các phạm trù bản chất và hiện tượng.
– Khả năng và hiện thực
c. Một số quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
+ Các phạm trù khả năng và hiện thực.
+ Mối liên hệ giữa các phạm trù khả năng và hiện thực.
+ Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ giữa các phạm trù khả năng và hiện thực.
Trong phép biện chứng duy vật, quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguyên nhân, động lực của sự phát triển; quy luật lượng đổi chất đổi chỉ ra tính chất và cách thức của sự phát triển; quy luật phủ định của phủ định chỉ ra xu hướng, hình thức và kết quả của sự phát triển đó.
– Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những sự thay đổi về chất và ngược lại (quy luật lượng đổi – chất đổi)
+ Các khái niệm chất; lượng; độ; điểm nút; bước nhảy.
+ Nội dung quy luật (Mối liên hệ giữa các khái niệm của quy luật).
+ Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật.
+ Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ biện chứng giữa các khái niệm của quy luật.
– Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (quy luật mâu thuẫn)
+ Các khái niệm mặt đối lập; thống nhất; đồng nhất; mâu thuẫn biện chứng; đấu tranh giữa các mặt đối lập.
+ Nội dung quy luật (Mối liên hệ giữa các khái niệm của quy luật).
+ Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật.
+ Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ biện chứng giữa các khái niệm của quy luật.
– Quy luật phủ định của phủ định
+ Các khái niệm phủ định siêu hình, phủ định biện chứng; kế thừa biện chứng; vòng xoáy ốc.
+ Nội dung quy luật (Mối liên hệ giữa các khái niệm của quy luật).
1. Phương pháp và phương pháp luận a. Khái niệm phương pháp và các cấp độ phương pháp
+ Vị trí, vai trò của quy luật trong phép biện chứng duy vật.
+ Một số quan điểm và nguyên tắc phương pháp luận được rút ra từ mối liên hệ biện chứng giữa các khái niệm của quy luật.
III. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
– Thuật ngữ Phương pháp có gốc từ tiếng Hy Lạp cổ methodos với nghĩa là con đường nghiên cứu hay con đường nhận thức, lý luận, học thuyết v.v. Nhưng chỉ từ thời Cận đại, khi khoa học thực nghiệm xuất hiện thì khả năng hệ thống phương pháp nhận thức và phương pháp nghiên cứu mới bắt đầu và từ đó, sự phát triển, hoàn thiện phương pháp mới trở thành một bộ phận quan trọng trong sự tiến bộ của khoa học.
– Định nghĩa phương pháp. Phương pháp là hệ thống những nguyên tắc được rút ra từ tri thức về các quy luật khách quan để điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn nhằm thực hiện mục tiêu nhất định; là cách thức xây dựng và tạo lập cơ sở cho các hệ thống triết học và tri thức khoa học; là tổng số cách tiếp nhận và các hành động chinh phục thế giới hiện thực bằng lý luận hay thực tiễn.
– Nguồn gốc của phương pháp. Cơ sở lý luận trực tiếp của phương pháp là các quy luật khách quan đã được con người nhận thức và diễn đạt bằng lý luận và lý luận đó là hạt nhân, là cốt lõi để từ đó các nguyên tắc tạo nên nội dung của phương pháp được xây dựng.
Trước khi hành động, con người thường phân tích hoàn cảnh; đề ra mục tiêu tương ứng; xác định cách thức và phương tiện để đạt được mục tiêu đó rồi mới tác động lên sự vật, hiện tượng theo hệ thống những nguyên tắc nhất định. Hệ thống những nguyên tắc được hình thành trong quá trình tác động qua lại giữa con người với tự nhiên; chỉ rõ phải hoạt động thế nào để đạt được mục tiêu đó tạo nên phương pháp. Những phương pháp đạt hiệu quả cao nhất được lựa chọn và bảo tồn trong hoạt động thực tiễn và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác nhờ ngôn ngữ. Như vậy, phương pháp bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh những quy luật khách quan đã được nhận thức để định hướng các hoạt động có mục đích của con người.
b. Khái niệm phương pháp luận và các cấp độ của phương pháp luận
– Vai trò của phương pháp. Kinh nghiệm cho thấy rằng, sau khi đã xác định được mục tiêu thì phương pháp trở thành yếu tố góp phần quyết định thành công hay thất bại của việc thực hiện mục tiêu đó. Phương pháp càng đúng đắn thì hiệu quả của hoạt động càng cao và ngược lại. Bêcơn ví phương pháp như ngọn đuốc soi đường cho người đi trong đêm tối. Hêghen ví phương pháp là linh hồn của đối tượng. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đặc biệt coi trọng vai trò của phương pháp, nhất là trong hoạt động cách mạng.
– Các cấp độ của phương pháp. Sự đa dạng của đối tượng dẫn đến sự đa dạng của phương pháp. Các khoa học nghiên cứu những đối tượng khác nhau thì có những phương pháp khác nhau phù hợp với mục tiêu mà khoa học đó nghiên cứu. Các phương pháp, do sự quy định đó và tuỳ thuộc vào các tiêu chí khác nhau, được chia thành các nhóm có quan hệ tác động qua lại với nhau là phương pháp riêng, phương pháp chung, phương pháp phổ biến và phương pháp nhận thức, phương pháp thực tiễn.
– Phương pháp biện chứng duy vật là hệ thống các nguyên tắc được hình thành trên cơ sở các nguyên lý, quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật. Những nguyên tắc này tác động, liên hệ qua lại, bổ sung cho nhau tạo thành công cụ trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Phương pháp biện chứng duy vật được sử dụng trong mọi ngành khoa học khác nhau, trong mọi lĩnh vực của thực tiễn và có vai trò quyết định trong việc xác định kết quả nghiên cứu và cải tạo sự vật, hiện tượng vì vậy, nó được gọi là phương pháp phổ biến bởi, phép biện chứng duy vật không chỉ đưa ra hướng nghiên cứu chung, đưa ra các nguyên tắc tiếp cận sự vật, hiện tượng nghiên cứu, mà còn là điểm xuất phát dưới góc độ đánh giá thế giới quan đối với những kết quả đạt được. Tuân thủ và thực hiện nhất quán, đồng bộ những nguyên tắc này là đòi hỏi bắt buộc đối với việc nghiên cứu lý luận cũng như đối với thực tiễn.
– Định nghĩa. Phương pháp luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể trong việc xác định phương pháp cũng như trong việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý, có hiệu quả tối đa.
– Nguồn gốc, vai trò của phương pháp luận. Trong thực tiễn, để đạt được mục đích đề ra con người có thể sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để giải quyết một công việc nào đó, gọi là sự lựa chọn phương pháp. Sự lựa chọn này phải trải qua một hoặc nhiều quá trình và phương pháp được lựa chọn có thể đúng, có thể sai. Xuất hiện vấn đề xác định được phương pháp đúng, khoa học và phương pháp sai, chưa khoa học, từ đây xuất hiện nhu cầu tri thức đúng về phương pháp và đó cũng là lý do để khoa học về phương pháp, tức là lý luận về phương pháp hay còn gọi là phương pháp luận ra đời. Như vậy, phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là khoa học về phương pháp. Nhiệm vụ của phương pháp luận là giải quyết những vấn đề như phương pháp là gì? Bản chất, nội dung, hình thức của phương pháp ra sao? Phân loại phương pháp cần dựa vào những tiêu chí gì? Vai trò của phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn? v.v. Điều này chứng tỏ vai trò tiền đề của phương pháp luận, cho phép đánh giá các phương pháp từ góc độ tính chân thực, tính hiệu quả của chúng.
– Các cấp độ của phương pháp luận. Phương pháp luận được phân chia thành các cấp độ khác nhau gồm phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học). Các hình thức phương pháp luận trên hợp thành một hệ thống khoa học về phương pháp chỉ đạo nhằm xác định các phương pháp cụ thể một cách đúng đắn. Bởi các hình thức phương pháp luận vừa độc lập tương đối với nhau, vừa bổ sung, xâm nhập vào nhau, do đó, phải biết vận dụng tổng hợp các hình thức phương pháp luận trong các hoạt động.
2. Một số nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật a. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
– Phương pháp luận biện chứng duy vật là hệ thống các nguyên tắc, các phương pháp tổ chức và xây dựng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng chính là học thuyết về hệ thống đó; là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và của các khoa học chuyên ngành. Phương pháp luận biện chứng duy vật là phương pháp luận chung nhất, là sự thống nhất biện chứng giữa các phương pháp luận bộ môn, phương pháp luận chung đã được cụ thể hoá trong các lĩnh vực của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
– Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và về vai trò, vị trí của con người trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất. Mỗi luận điểm của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương pháp. Những chức năng nói trên của triết học tạo ra khả năng cải tạo thế giới của triết học, trở thành công cụ hữu hiệu trong hoạt động chinh phục tự nhiên và trong sự nghiệp giải phóng con người của các lực lượng tiến bộ.
Phương pháp và phương pháp luận vừa độc lập vừa thống nhất với nhau. Phương pháp là cách thức hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cụ thể của con người còn phương pháp luận là những quan điểm, nguyên tắc xuất phát chỉ đạo chủ thể xác định phương pháp một cách đúng đắn; phương pháp luận, tuy nghiên cứu về phương pháp, nhưng không nhằm mục đích xác định phương pháp cụ thể mà chỉ nhằm rút ra những quan điểm, những nguyên tắc chung cho việc xác định và áp dụng phương pháp. Như vậy, phương pháp luận- thuần tuý lý luận còn phương pháp gồm cả lý luận và thực tiễn. Bởi vậy, không nên nhầm phương pháp với phương pháp luận và cũng phải coi phương pháp thống nhất với phương pháp luận ở chỗ phương pháp luận là cơ sở để nghiên cứu các phương pháp cụ thể, còn phương pháp cụ thể phải xuất phát từ quan điểm, nguyên tắc của phương pháp luận.
– Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật, theo đó, các sự vật, hiện tượng tồn tại trong sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau và tách biệt nhau.
– Nội dung của nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn.
+ Nguyên tắc toàn diện phản ánh mối liên hệ chỉnh thể, tức nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó, nghiên cứu mối tổng hoà những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với các sự vật khác.
+ Nguyên tắc toàn diện trong sự đối lập với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện, phản ánh mối liên hệ chủ yếu để rút ra những mặt, những mối liên hệ tất yếu của sự vật, hiện tượng đó; nhận thức chúng trong sự thống nhất hữu cơ nội tại bởi chỉ có như vậy, nhận thức mới có thể phản ánh được đầy đủ nhất sự tồn tại khách quan với nhiều thuộc tính, nhiều mối liên hệ, quan hệ và tác động qua lại của các khách thể nhận thức.
b. Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
+ Nguyên tắc toàn diện xem xét mối liên hệ gắn với nhu cầu thực tiễn; không viển vông, ảo tưởng bởi mối liên hệ giữa sự vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng, trong mỗi hoàn cảnh, chỉ phản ánh được mối liên hệ nào đó phù hợp với nhu cầu của con người nên nhận thức về sự vật, hiện tượng cũng mang tính tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. Nắm được điều đó, sẽ tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức đã có, xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối mà không bổ sung, không phát triển. Chỉ có như vậy mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ quá trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng.
+ Nguyên tắc toàn diện xem xét mối liên hệ đồng bộ; không cục bộ, phiến diện; nghĩa là trong thực tiễn, phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật, hiện tượng. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt để tập trung lực lượng giải quyết, tránh dàn trải.
+ Nguyên tắc toàn diện dự báo được khả năng vận động, phát triển; tránh trì trệ, bảo thủ.
– Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật. Theo đó, phát triển là một phạm trù dùng để khái quát quá trình vận động đi lên; là một hình thức của vận động và trong sự phát triển, sẽ nảy sinh những tính quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng cùng chức năng vốn có của nó ngày càng hoàn thiện hơn.
– Nội dung của nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn.
c. Nguyên tắc lịch sử – cụ thể trong nhận thức và thực tiễn
+ Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt nó trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai. Cần chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn, còn động lực của sự phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng đó.
+ Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy, phải phân tích cụ thể để tìm ra những hình thức hoạt động, phương pháp tác động phù hợp để hoặc, thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
– Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử – cụ thể là toàn bộ nội dung phép biện chứng duy vật và nguyên tắc chân lý là cụ thể của lý luận nhận thức duy vật biện chứng.
– Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hoá qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó. Đặc trưng cơ bản của nguyên tắc này là xem xét sự hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng trong lịch sử, trong điều kiện, môi trường, hoàn cảnh v.v cụ thể.
– Nội dung của nguyên tắc lịch sử – cụ thể trong nhận thức và thực tiễn được V.I.Lênin nêu rõ là phải xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào. Như vậy, nguyên tắc lịch sử – cụ thể tái tạo lại sự vật, hiện tượng thông qua lăng kính của những ngẫu nhiên, những bước quanh co, những gián đoạn theo tình tự không gian và thời gian, theo trình tự của sự hình thành sự vật, hiện tượng; nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động đa dạng và nhiều vẻ của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó.
+ Nguyên tắc lịch sử – cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất; nghĩa là phải nhận thức được rằng, vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó.
d. Mối liên hệ giữa các nguyên tắc phương pháp luận trên
+ Nguyên tắc lịch sử – cụ thể yêu cầu phải chỉ rõ được những giai đoạn mà nó đã trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong nhận thức và thực tiễn, để nhận thức và giải thích được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu đặc trưng, những chất và lượng vốn có của sự vật, hiện tượng.
+ Nguyên tắc lịch sử – cụ thể còn yêu cầu chỉ ra được mối liên hệ khách quan; chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng phủ định là sự kế tục sự vật, hiện tượng bị phủ định, là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng bị phủ định trong dạng đã được cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng phủ định.
+ Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn luôn quán triệt nguyên tắc lịch sử – cụ thể để nhận thức sự vật, hiện tượng với đầy đủ các mối liên hệ trong sự tồn tại khách quan vốn có của nó, để nhận thức được vị trí, vai trò của từng mối liên hệ quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
CHƯƠNG VII. NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TS. Lê Văn Lực, Đại học Quốc gia Hà Nội
– Sự thống nhất giữa các nguyên tắc phương pháp luận trên.
1. Phạm trù thực tiễn
– Sự khác nhau giữa các nguyên tắc phương pháp luận trên.
– Vận dụng đồng bộ các nguyên tắc phương pháp luận vào nhận thức và thực tiễn./.
I. PHẠM TRÙ THỰC TIỄN VÀ PHẠM TRÙ LÝ LUẬN
– Vấn đề thực tiễn trong triết học trước Mác.
+ Đa số các nhà triết học duy vật trước Mác chưa có quan điểm đúng đắn về thực tiễn, chưa đặt ra vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, mà chỉ nêu vai trò của thực nghiệm khoa học, do vậy chưa thấy vai trò của thực tiễn đối với nhận thức nói chung, với lý luận nói riêng. Đó là những nguyên nhân chủ yếu lý giải chủ nghĩa duy vật trước Mác đã không làm sáng tỏ được vai trò năng động, sáng tạo và tính tích cực của tư duy con người. Bêcơn là nhà triết học đầu tiên nhận thấy vai trò của thực nghiệm trong quá trình nhận thức, hình thành tri thức khoa học; theo đó nhận thức phải xuất phát từ giới tự nhiên và thực nghiệm để tìm ra mối quan hệ nhân – quả, phát hiện và kiểm tra chân lý. Phoiơbắc coi thực tiễn là hoạt động của con người, nhưng chỉ coi hoạt động lý luận là hoạt động đích thực của con người. Khuyết điểm chủ yếu của các nhà triết học duy vật trước Mác trong vấn đề thực tiễn là sự vật, hiện thực, cái cảm giác được, chỉ được nhận thức trong hình thức khách thể hay hình thức trực quan chứ không được coi là hoạt động cảm giác của con người, của thực tiễn. Tuy vậy, quan điểm về vai trò của thực nghiệm khoa học trong quá trình nhận thức, trong sự hình thành tri thức khoa học vẫn là một trong những tiền đề cho quan niệm về thực tiễn trong triết học Mác.
+ Các nhà triết học duy tâm, tuy thấy được mặt năng động của tư duy, nhưng lại tuyệt đối hoá vai trò của nó, làm cho tư duy trở nên thần bí. Hêghen cho rằng, bằng thực tiễn, chủ thể tự nhân đôi mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài và tuy đó không phải là hoạt động vật chất của con người mà của ý niệm tuyệt đối nhưng vẫn là ý tưởng sâu sắc về thực tiễn.
– Phạm trù thực tiễn trong triết học Mác – Lênin.
2. Phạm trù lý luận
+ Định nghĩa. Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử – xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình.
+ Tính chất của thực tiễn. Thực tiễn là hoạt động vật chất, có tính lịch sử – cụ thể; có tính xã hội; có tính tất yếu; phong phú và đa dạng.
+ Các hình thức thực tiễn cơ bản. Để hiểu được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức nói chung, lý luận nói riêng, cần phải thấy thực tiễn là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người và thế giới xung quanh, là phương thức tồn tại của con người và xã hội loài người. Các hình thức thực tiễn cơ bản là hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động chính trị xã hội; hoạt động thực nghiệm khoa học và một số lĩnh vực của thực tiễn như hoạt động giáo dục, nghệ thuật, y tế v.v, trong đó hoạt động sản xuất vật chất là hình thức cơ bản, quy định các hình thức và lĩnh vực còn lại.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, con người tự làm ra lịch sử của mình bằng hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới hiện thực chứ không phải bắt đầu từ những lý luận nào đó. Đó cũng là cách hiểu về vai trò của hoạt động thực tiễn như là điểm xuất phát của quan niệm duy vật về lịch sử, của lý luận duy vật biện chứng về nhận thức.
– Định nghĩa. Lý luận là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những quy luật vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử.
– Nguồn gốc của lý luận. Lý luận hình thành nhờ quá trình nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận do các thế hệ trước để lại.
+ Nhận thức kinh nghiệm được hình thành nhờ quá trình quan sát những diễn biến xẩy ra của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức kinh nghiệm gồm tri thức kinh nghiệm thông thường, là tri thức có được nhờ hoạt động hàng ngày giúp con người giải quyết những vấn đề đơn giản, cụ thể; còn tri thức kinh nghiệm khoa học là tri thức thu được nhờ tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức thu được trong quá trình thực nghiệm khoa học, loại tri thức này là tiên đề trực tiếp để hình thành lý luận khoa học.
+ Nhận thức lý luận được hình thành nhờ tri thức kinh nghiệm khoa học và lý luận do các thế hệ trước để lại.
– Các cấp độ lý luận. Lý luận ngành và lý luận triết học.
+ Lý luận ngành là lý luận khái quát những quy luật hình thành và phát triển của một ngành; có vai trò là cơ sở lý luận để sáng tạo, đông thời là phương pháp luận của ngành đó (lý luận văn học, nghệ thuật v.v).
+ Lý luận triết học là hệ thống những quan niệm chung nhất về thế giới, về vị trí và vai trò của con người trong thế giới ấy, đồng thời là thế giới quan và phương pháp luận của hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.
– Các chức năng cơ bản của lý luận. Chức năng phản ánh hiện thực khách quan và chức năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn.
1. Thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn
+ Chức năng phản ánh hiện thực khách quan của lý luận thể hiện qua những quy luật chung nhất.
+ Chức năng phương pháp luận cho hoạt động thực tiễn (xem phương pháp luận).
II. NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN
– Thực tiễn là cơ sở của lý luận.
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là do nhu cầu của hoạt động thực tiễn buộc con người phải nhận thức thế giới.
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì nhờ hoạt động thực tiễn, các giác quan và bộ não của con người không ngừng được hoàn thiện và phát triển, tạo ra năng lực tư duy trừu tượng ngày càng cao.
+ Thực tiễn là cơ sở của nhận thức là vì nhờ thông qua lao động, thực tiễn trang bị cho con người công cụ, phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi hơn, giúp con người đẩy nhanh quá trình tìm hiểu bản chất sự vật, hiện tượng, mở rộng tầm bao quát những quá trình đang diễn ra trong thế giới.
– Thực tiễn là động lực của lý luận.
+ Hoạt đ��ng thực tiễn là nguồn gốc để con người hoàn thiện mình và hoàn thiện các mối quan hệ với tự nhiên, với xã hội.
+ Hoạt động thực tiễn tạo cơ sở để con người khái quát tri thức thành lý luận, làm lý luận phản ánh hiện thực ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn.
+ Nhờ vậy, thực tiễn thúc đẩy sự hình thành khoa học lý luận.
– Thực tiễn là mục đích của lý luận.
Mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con người và mục đích đó chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn tạo vai trò đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của lý luận.
2. Thực tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận; ngược lại, lý luận phải được vận dụng vào thực tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn
– Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận.
+ Tính chân lý của lý luận là sự phản ánh phù hợp của lý luận với hiện thực khách quan mà nó phản ánh và đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Giá trị của lý luận phải được thực tiễn chứng minh.
+ Không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của lý luận, bởi thực tiễn cũng vận động, phát triển và chuyển hoá. Nếu lý luận chỉ phản ánh một trong những giai đoạn nào đó của thực tiễn, thì lý luận chỉ mới chỉ là tương đối; chỉ có những lý luận nào phản ánh được thực tiễn trong tính toàn vẹn của nó mới đạt đến chân lý.
– Lý luận có khả năng soi đường cho thực tiễn bằng các chức năng định hướng mục đích; xác định lực lượng, phương pháp và biện pháp thực hiện mục đích.
+ Lý luận định hướng mục đích. Ban đầu, hoạt động chỉ để đáp ứng nhu cầu tồn tại và thông qua đó, khái quát thành lý luận; về sau hoạt động muốn có hiệu quả cần có lý luận soi đường, hoạt động từ bản năng chuyển sang tự giác.
+ Lý luận có khả năng xác định lực lượng, phương pháp và biện pháp thực hiện mục đích.
– Lý luận dự báo khả năng phát triển, những khả năng có thể xẩy ra trong quá trình hoạt động, bởi vậy lý luận không những giúp hoạt động hiệu quả, mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng cường năng lực hoạt động của con người.
1. Lý luận phải luôn bám sát thực tiễn; phản ánh được yêu cầu của thực tiễn; khái quát được những kinh nghiệm của thực tiễn
– Lý luận có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng; liên kết các cá nhân thành cộng đồng, tạo ra sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, xã hội.
– Lý luận phải trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực tiễn và tiếp tục bổ sung, phát triển trong thực tiễn; chống lý luận suông và sự lạc hậu của lý luận so với thực tiễn.
2. Hoạt động thực tiễn phải lấy lý luận chỉ đạo; khi vận dụng lý luận phải phù hợp với điều kiện lịch sử – cụ thể
III. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VỚI THỰC TIỄN TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
– Thực tiễn luôn vận động, phát triển và biến đổi nên nhận thức phải bám sát để phản ánh quá trình đó; so sánh, đối chiếu, phân tích để chọn lọc những thực tiễn có tính quy luật làm cơ sở cho quá trình hình thành lý luận.
3. Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều
– Lý luận phải khái quát được kinh nghiệm của nhân loại; tổng kết được thực tiễn mới có tính khoa học và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
– Lý luận là sự tổng kết thực tiễn và là mục đích cho hoạt động thực tiễn tiếp theo.
– Lý luận phản ánh thực tiễn trong dạng quy luật nên lý luận có khả năng trở thành phương pháp luận cho thực tiễn.
1. Những tiền đề xuất phát để xây dựng lý luận hình thái kinh tế – xã hội
– Bệnh kinh nghiệm, nguyên nhân và con đường khắc phục. Bệnh kinh nghiệm xuất hiện do tuyệt đối hoá những kinh nghiệm đã có và áp dụng chúng vào hiện tại mặc đù điều kiện đã thay đổi. Muốn khắc phục bệnh này, cần quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, luôn bám sát thực tiễn, nâng cao trình độ lý luận; bổ sung, vận dụng lý luận phù hợp với thực tiễn.
– Bệnh giáo điều, nguyên nhân và con đường khắc phục. Bệnh giáo điều xuất hiện do nắm lý luận còn nông cạn, tuyệt đối hoá lý luận, vận dụng máy móc những kiến thức đã có trong sách vở mà coi nhẹ kinh nghiệm. Muốn khắc phục bệnh này, cần quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, luôn gắn lý luận với thực tiễn, kiểm tra lý luận trong thực tiễn và phát triển lý luận cùng với sự phát triển của thực tiễn./.
I. LÝ LUẬN HÌNH THÁI KINH TẾ – XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA LÝ LUẬN ĐÓ
– Quan điểm duy tâm về lĩnh vực xã hội.
+ Xuất phát từ ý thức, tư tưởng, tôn giáo, chính trị để giải thích đời sống xã hội.
+ Quan hệ thống trị là quan hệ tôn giáo, pháp luật, chính trị.
2. Cấu trúc xã hội, phạm trù hình thái kinh tế – xã hội
– Tiền đề xuất phát để xây dựng quan điểm duy vật về xã hội.
+ Phê phán quan điểm duy tâm về lĩnh vực xã hội.
+ Xuất phát từ đời sống hiện thực của con người, bắt đầu từ sự khẳng định sản xuất vật chất với hai mặt là quan hệ giữa người với người và quan hệ giữa người với tự nhiên trong quá trình sản xuất, C.Mác đã phát hiện ra cơ sở vật chất, kinh tế quy định tư tưởng, chính trị và điều kiện sinh hoạt vật chất quy định ý thức của con người; khẳng định sự vận động và phát triển của xã hội tuân theo quy luật khách quan, nhưng cũng nêu cao vai trò của nhân tố chủ quan. Từ đó, C.Mác đưa ra khái quát khoa học về lý luận hình thái kinh tế – xã hội.
– Cấu trúc xã hội gồm các lĩnh vực kinh tế; lĩnh vực chính trị; lĩnh vực ý thức, tư tưởng; lĩnh vực các quan hệ xã hội về gia đình, giai cấp, dân tộc; các lĩnh vực đó thống nhất biện chứng với nhau, trong đó lĩnh vực kinh tế quy định các lĩnh vực còn lại.
– Phạm trù hình thái kinh tế – xã hội.
+ Định nghĩa phạm trù hình thái kinh tế – xã hội. Hình thái kinh tế – xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
+ Các thành phần của hình thái kinh tế – xã hội. Là hệ thống hoàn chỉnh, phức tạp, hình thái kinh tế – xã hội gồm các mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế – xã hội vừa tồn tại độc lập, vừa tác động qua lại, vừa thống nhất với nhau.
– Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế – xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định sự hình thành, tồn tại và chuyển hoá lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế – xã hội, từ hình thái thấp, ít tiến bộ lên hình thái cao hơn, tiến bộ hơn.
3. Phép biện chứng về sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội
– Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, quy định mọi quan hệ xã hội khác, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội. Quan hệ sản xuất còn là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội.
– Kiến trúc thượng tầng được hình thành và phát triển trên cơ sở hạ tầng và là công cụ bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó.
– Ngoài lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng, hình thái kinh tế – xã hội còn bao gồm các yếu tố như quan hệ gia đình, giai cấp, dân tộc v.v. Chúng gắn bó với quan hệ sản xuất và cùng biến đổi với sự biến đổi của quan hệ sản xuất.
– Biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất.
Sự liên hệ, tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất (cái thứ hai) với lực lượng sản xuất (cái thứ nhất) tạo nên quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Các khái niệm.
1) Phương thức sản xuất. Sản xuất vật chất được tiến hành trong điều kiện tự nhiên, môi trường địa lý; dân số, mật độ dân số và phương thức sản xuất vật chất. Trong các yếu tố đó, phương thức sản xuất là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện để sản xuất vật chất, là sự thống nhất biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất ở những giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người. Mỗi phương thức sản xuất thể hiện sự thống nhất cụ thể giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định với quan hệ sản xuất tương ứng. Trong lịch sử xã hội loài người đã tồn tại hình thái kinh tế-xã hội nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản và cộng sản. Chúng là những nấc thang chính trong sự phát triển của xã hội loài người.
2) Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất – kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế – xã hội; là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên trong quá trình sản xuất vật chất, thể hiện năng lực thực tế chinh phục giới tự nhiên bằng sức mạnh tổng hợp của con người trong quá trình đó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quy định sự hình thành, tồn tại và chuyển hoá giữa các hình thái kinh tế-xã hội, từ hình thái thấp, ít tiến bộ lên hình thái tiến bộ hơn. Các yếu tố của lực lượng sản xuất là tư liệu sản xuất, người lao động và khoa học.
3) Quan hệ sản xuất là quan hệ vật chất, kinh tế cơ bản nhất của hình thái kinh tế – xã hội, quy định mọi quan hệ xã hội khác và mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của mỗi hình thái kinh tế -xã hội nhất định, thể hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất; phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội và là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ, nó tồn tại khách quan, độc lập với ý thức con người. Tuy vậy, trong quy luật này, quan hệ sản xuất mang tính thứ hai, do lực lượng sản xuất quy định.
+ Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất.
1) Lực lượng sản xuất quy định quan hệ sản xuất. Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn, con người luôn tìm cách cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới nhằm đạt năng suất, hiệu quả cao hơn; kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, tri thức khoa học cũng tiến bộ và phát triển hơn. Nhưng trong quá trình đó, quan hệ sản xuất thường chậm phát triển hơn nên sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuấtkhông là vĩnh viễn trong sự vận động, phát triển của xã hội. Khi phát triển tới trình độ mới, tình trạng phù hợp trên sẽ bị phá vỡ, xuất hiện mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất cũ với trình độ mới của lực lượng sản xuất và khi đến trình độ nào đó, quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích của lực lượng sản xuất, níu kéo sự phát triển tiếp theo của lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng.
Mâu thuẫn biện chứng giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính quy luật và thể hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Vì vậy, việc giải quyết mâu thuẫn đó còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan. Con người phát hiện những yếu tố không phù hợp của quan hệ sản xuất; phủ định chúng và thay thế bằng những yếu tố phù hợp; đem lại sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển c���a lực lượng sản xuất. Nhưng rồi sự phù hợp đó không chống lại được sự phát triển khách quan của lực lượng sản xuất lên trình độ mới tiếp theo dẫn đến sự phát triển biện chứng của sản xuất vật chất tuân theo chuỗi xích phù hợp, không phù hợp.
2) Quan hệ sản xuất tồn tại độc lập tương đối và tác động ngược trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ tạo địa bàn, mở đường và trở thành động lực cơ bản thúc đẩy và ngược lại, sẽ trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích sản xuất; tác động lên thái độ người lao động; lên tổ chức phân công lao động xã hội; lên khuynh hướng phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ để từ đó hình thành một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất bao giờ cũng thông qua các quy luật kinh tế xã hội, đặc biệt là các quy luật kinh tế c�� bản. Thực tiễn cho thấy, lực lượng sản xuất chỉ có thể phát triển khi có quan hệ sản xuất hợp lý, đồng bộ, phù hợp với nó.
– Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
Mỗi xã hội cụ thể đều có một kiểu quan hệ vật chất, kinh tế nhất định và phù hợp với nó là quan hệ tư tưởng, chính trị v.v. Những quan hệ này được thể hiện qua những tổ chức xã hội tương ứng (nhà nước, đảng phái chính trị, toà án, giáo hội và các tổ chức xã hội khác). Mối liên hệ, tác động lẫn nhau giữa quan hệ vật chất, kinh tế (cái thứ nhất) với quan hệ tư tưởng, tinh thần (cái thứ hai) được chủ nghĩa duy vật biện chứng phản ánh trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
+ Các khái niệm.
* Cơ sở hạ tầng (hạ tầng các mối quan hệ vật chất, kinh tế) dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất tạo nên cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định. Các thành phần cơ bản của một cơ sở hạ tầng cụ thể gồm quan hệ sản xuất thống trị trong phương thức sản xuất; quan hệ sản xuất tàn dư của phương thức sản xuất trước đó; quan hệ sản xuất mầm mống của phương thức sản xuất tương lai và những kiểu quan hệ kinh tế khác, trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế và các kiểu quan hệ sản xuất khác và quy định tính chất của cơ sở hạ tầng. Sự đối kháng giai cấp và tính chất của sự đối kháng đó bắt nguồn từ cơ sở hạ tầng.
* Kiến trúc thượng tầng (thượng tầng các mối quan hệ tư tưởng, chính trị) là toàn bộ những quan điểm xã hội (chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học v.v) với những thiết chế tương ứng (nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội v.v) và những mối quan hệ nội tại giữa các yếu tố đó của kiến trúc thượng tầng. Các thành phần cơ bản của một kiến trúc thượng tầng cụ thểgồm những quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp thống trị; tàn dư những quan điểm xã hội của xã hội trước; quan điểm và tổ chức xã hội của các giai cấp mới ra đời; quan điểm và tổ chức xã hội của các tầng lớp trung gian. Trong đó, những quan điểm xã hội và thiết chế tương ứng của giai cấp thống trị quy định tính chất kiến trúc thượng tầng. Bộ phận có quyền lực mạnh nhất của kiến trúc thượng tầng là nhà nước- công cụ vật chất của giai cấp thống trị về mặt kinh tế, chính trị và pháp luật. Nhờ có nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được xã hội. Giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế và nắm chính quyền nhà nước thì tư tưởng và các thể chế giai cấp đó cũng giữ địa vị thống trị trong xã hội.
+ Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất.
* Cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng thông qua 1) Tính chất của kiến trúc thượng tầng do tính chất của cơ sở hạ tầng quy định. 2) Những biến đổi trong cơ sở hạ tầng sẽ dẫn đến những biến đổi trong kiến trúc thượng tầng. 3) Sự phụ thuộc của kiến trúc thượng tầng vào cơ sở hạ tầng thể hiện phong phú và phức tạp.
* Kiến trúc thượng tầng tác động trở lại cơ sở hạ tầng thông qua 1) Trong mỗi kiến trúc thượng tầng còn kế thừa một số yếu tố của kiến trúc thượng tầng trước. 2) Trong xã hội có giai cấp, nhà nước là yếu tố vật chất có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng. 3) Các yếu tố tinh thần của kiến trúc thượng tầng như chính trị, pháp luật tác động trực tiếp, còn triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, khoa học v.v tác động gián tiếp đối với cơ sở hạ tầng, bị các yếu tố chính trị, pháp luật chi phối. 4) Sự tác động tích cực của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó; đấu tranh xoá bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng cũ. Trong đó, nhà nước, dựa trên hệ tư tưởng để kiểm soát xã hội và dùng bạo lực để tăng cường sức mạnh kinh tế của giai cấp thống trị. 5) Tác dụng những tác động của kiến trúc thượng tầng lên cơ sở hạ tầng sẽ là tích cực khi tác động đó cùng chiều với sự vận động của các quy luật kinh tế khách quan, nếu trái lại, sẽ gây trở ngại cho sự phát triển sản xuất, cản đường phát triển của xã hội. Tuy kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh, nhưng không thể thay thế được yếu tố vật chất, kinh tế. Nếu kiến trúc thượng tầng kìm hãm sự phát triển của kinh tế – xã hội, sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng đó sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới, thúc đẩy kinh tế – xã hội tiếp tục phát triển.
– Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên.
4. Tính khoa học và vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế-xã hội
+ Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội vừa tuân theo quy luật khách quan phổ biến, vừa chịu sự chi phối của các quy luật riêng, đặc thù.
+ Nguồn gốc sâu xa của sự thay thế nhau theo khuynh hướng phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+ Quá trình thay thế nhau của các hình thái kinh tế – xã hội vừa diễn ra tuần tự, vừa bao hàm cả sự bỏ qua một vài hình thái kinh tế – xã hội nào đó.
– Tính khoa học của lý luận hình thái kinh tế – xã hội.
– Vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế – xã hội.
+ Đời sống xã hội phải được giải thích từ sản xuất, từ phương thức sản xuất.
+ Xã hội là một tổ chức sống; các yếu tố của nó thống nhất, tác động lẫn nhau.
1. Dự báo của C.Mác và V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội
+ Sự phát triển của các hình thái kinh tế – xã hội là một quá trình lịch sử – tự nhiên.
+ Quy luật phát triển chung của xã hội loài người và quy luật riêng, đặc thù của mỗi dân tộc.
II. NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
– C.Mác và Ph.Ăngghen dự báo về sự ra đời của hình thái cộng sản chủ nghĩa.
+ Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí và giai cấp vô sản cách mạng- những yếu tố xoá bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng xã hội mới.
+ Để đi đến xã hội cộng sản, phải trải qua cách mạng vô sản; cuộc cách mạng đó sẽ đồng thời xẩy ra ở trong các nước tư bản phát triển (Anh, Mỹ, Pháp, Đức).
– V.I.Lênin kế thừa và phát triển tư tưởng của C.Mác trong việc phân tích xã hội tư bản và dự báo về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
+ Quy luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, nên chủ nghĩa xã hội có thể thắng lợi, trước hết trong một số ít nước, thậm chí trong một nước tư bản.
2. Chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hoá tập trung và vai trò lịch sử của nó
+ Hai con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
* Quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội đối với các nước tư bản phát triển.
* Quá độ gián tiếp thông qua nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ đối với các nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển.
– Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội theo mô hình hoá kế hoạch hoá tập trung.
+ Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chủ yếu trong hình thức toàn dân và tập thể.
+ Nhà nước quyết định và quyết định có tính pháp lệnh về sản xuất gì, như thế nào, phân phối cho ai những sản phẩm đó.
+ Phân phối bình quân, trực tiếp bằng hiện vật; coi nhẹ quan hệ hàng hoá – tiền tệ.
+ Nhà nước quản lý bằng mệnh lệnh hành chính; coi nhẹ các biện pháp kinh tế.
3. Những biến đổi của thời đại và vấn đề quá độ lên chủ nghĩa xã hội
– Vai trò lịch sử của mô hình kế hoạch hoá tập trung.
+ Vai trò tích cực. Trong điều kiện bị bao vây, cô lập, mô hình kế hoạch hoá tập trung có vai trò tích cực trong việc huy động sức người, sức của vào sự nghiệp xây dựng đất nước và chống lại sự tấn công của kẻ thù.
4. Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam a. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam
+ Hạn chế. Không khai thác được năng lực sản xuất; không phát huy được sự nhiệt tình và tính chủ động sáng tạo của sản xuất; không đẩy nhanh được sự tiến bộ của khoa học, công nghệ v.v. Đẻ ra bộ máy hành chính quan liêu, chủ quan duy ý chí.
– Chủ nghĩa xã hội theo mô hình kế hoạch hoá tập trung sụp đổ; chủ nghĩa tư bản đạt được nhiều thành tựu về kinh tế, khoa học và công nghệ.
– Nhận thức lại về chủ nghĩa xã hội không tách rời với nhận thức về sự phát triển và diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản cùng với những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ.
b. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
– Vận dụng sáng tạo lý luận hình thái kinh tế – xã hội vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
+ Lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu hướng của thời đại. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, mặc dù có những vấp váp, nhưng đã đem lại nhiều thành tựu về mọi mặt.
+ Bỏ qua tư bản chủ nghĩa, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
c. Kết hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
– Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
– Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt.
d. Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội
– Công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn có ý nghĩa chống lại nguy cơ tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới.
– Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối.
CHƯƠNG IX. GIAI CẤP, DÂN TỘC, NHÂN LOẠI TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY VÀ VẬN DỤNG VÀO SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TS. Dương Văn Thịnh, Đại học Quốc gia Hà Nội
– Xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Khái quát các quan điểm ngoài mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp a. Quan điểm của các nhà tư tưởng trước Mác về giai cấp, đấu tranh giai cấp
– Mối liên hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay.
– Mối liên hệ giữa đổi mới kinh tế, chính trị với đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội./.
I. GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
b. Quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp của các nhà tư tưởng tư sản hiện đại
– Quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong triết học phương Đông: Trung Quốc và Ấn Độ cổ, trung đại.
– Quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong triết học phương Tây: Hy Lạp cổ đại.
– Quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp của các nhà tư tưởng tư sản Trung cổ và Cận đại: Morơ (1478 – 1535, Anh), Campanenla (1568 – 1639, Italia), Rútxô (1712 – 1778, Pháp), Ximông (1760 – 1825, Pháp), trong đó các nhà lịch sử Pháp như Ghidô (1778 – 1874), Chiery (1795 – 1856), Minhe (1796 – 1884) là những người phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp.
2. Quan điểm mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp a. Quan điểm khoa học về giai cấp
– Giai cấp không phải là hiện tượng phổ biến; đấu tranh giai cấp không phải là quy luật chung cho mọi xã hội.
– Giai cấp xuất hiện từ cơ sở sinh học; trạng thái tâm lý, khả năng trí tuệ, nghề nghiệp; thu nhập.
– Trong phong trào cộng sản quốc tế cũng có những quan niệm sai trái như thừa nhận cơ sở kinh tế của giai cấp nhưng giải quyết mâu thuẫn giai cấp bằng đấu tranh kinh tế (Cauxki và Bécxtanh ở Đức trước đây); quan niệm về đấu tranh giai cấp cực đoan, phiêu lưu, mạo hiểm, dễ bị tổn thất lớn v.v.
– Giai cấp là một phạm trù kinh tế – xã hội có tính lịch sử; biến đổi cùng với sự biến đổi của lịch sử. C.Mác là người đầu tiên đưa ra phương pháp luận nghiên cứu giai cấp, theo đó, 1) sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất. 2) đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến chuyên chính vô sản. 3) bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu tất cả mọi giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp. Như vậy, sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển cụ thể của lịch sử, với mỗi phương thức sản xuất cụ thể.
– Năm 1883, trong Lời tựa viết cho bản tiếng Đức tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Ph.Ăngghen viết “do đó (từ khi chế độ công hữu ruông đất nguyên thuỷ tan rã) toàn bộ lịch sử là lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp” (…) “nhưng cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản) không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi cuộc đấu tranh giai cấp”.
– Năm 1919, trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại viết về Ngày thứ bảy cộng sản của công nhân ga xe lửa Cadan (Mátxcơva), V.I.Lênin đưa ra định nghĩa “Người ta gọi là giai cấp những tập đoàn người to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hay nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế – xã hội nhất định”.
b. Quan điểm về đấu tranh giai cấp và vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội có giai cấp đối kháng
– Lịch sử loài người từ khi có giai cấp đối kháng tới nay là lịch sử đấu tranh giai cấp. Nguyên nhân khách quan của đấu tranh giai cấp là do mâu thuẫn bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống lại bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động chống lại bọn có đặc quyền, đặc lợi và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”. Như vậy, thực chất đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có địa vị kinh tế và lợi ích cơ bản đối lập nhau (lợi ích cơ bản là những giá trị vật chất và tinh thần cơ bản để thoả mãn nhu cầu nhất định của một giai cấp). Do sự đối lập mang tính đối kháng như vậy giữa các giai cấp nên đấu tranh giai cấp là tất yếu.
c. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trong điều kiện hiện nay
– Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản tất yếu dẫn đến cuộc cách mạng xã hội để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng xã hội xã hội chủ nghĩa.
– Chuyên chính vô sản (Hệ thống chính trị) không phải là mục tiêu cuối cùng của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, mà chỉ là công cụ, phương tiện để thực hiện giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột bằng cách xây dựng liên hiệp, trong đó tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của mọi người.
Như vậy, sự xuất hiện của giai cấp, sự đấu tranh giữa các giai cấp và sự xoá bỏ giai cấp đều là tất yếu khách quan. Điều kiện khách quan đó bắt nguồn từ trong quá trình phát triển của sản xuất xã hội.
– Điều kiện hiện nay của đấu tranh giai cấp.
+ Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liênxô và Đông Âu sụp đổ, so sánh lực lượng tạm thời có lợi cho các lực lượng phản cách mạng và bất lợi cho lực lượng cách mạng.
+ Chủ nghĩa tư bản vẫn còn khả năng phát triển, có những điều chỉnh, thay đổi khá sâu sắc để thích nghi với điều kiện mới, tạm thời xoa dịu mâu thuẫn giữa tư bản với vô sản.
+ Cách mạng khoa học, công nghệ làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh. Mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có nhiều biểu hiện mới, gay gắt nhưng phức tạp, không dễ nhận thức như trước.
– Nhận định về tình hình hiện nay của Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội IX).
+ Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới, biểu hiện dưới những hình thái và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn.
+ Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, lúc hoà hoãn, lúc gay gắt.
+ Chủ nghĩa tư bản còn tiếp tục tự điều chỉnh, nắm và sử dụng các thành tựu khoa học và công nghệ để phát triển, song vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công, vì vậy không thể khắc phục nổi những mâu thuẫn vốn có của nó.
3. Vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
+ Các quốc gia độc lập ngày càng tăng cường đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con đường phát triển của mình, chống lại sự áp đặt, can thiệp của nước ngoài.
+ Chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời lâm vào thoái trào nhưng vẫn có điều kiện và khả năng phục hồi và phát triển.
+ Tính chất của thời đại vẫn không thay đổi- là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
a. Đặc điểm giai cấp và quan hệ giai cấp trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
– Hiện nay và cả trong thời kỳ quá độ ở nước ta vẫn tồn tại giai cấp và đấu tranh giai cấp trong điều kiện mới với những nội dung và bằng những hình thức mới.
– Điều kiện mới của cuộc đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay có nhiều thay đổi do cơ cấu, vị trí, mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp trong xã hội không còn giống với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ cũng như không còn giống với thời kỳ đầu mới bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bởi lợi ích cơ bản, lâu dài của các giai cấp thống nhất với lợi ích dân tộc; cuộc đấu tranh giai cấp, giữa hai con đường gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, chống nghèo nàn, lạc hậu chậm phát triển.
b. Nội dung và hình thức đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
– Đấu tranh nhằm xây dựng Việt Nam thành dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh mà cơ bản là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chống lại khuynh hướng tự phát tư bản chủ nghĩa; xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc; chống các nguy cơ đang làm ảnh hưởng tới sự tồn vong của chế độ.
1. Dân tộc và quan hệ giai cấp với dân tộc a. Khái niệm dân tộc và sự hình thành dân tộc
– Để thực hiện được mục tiêu đó, phải sử dụng nhiều hình thức đấu tranh khác nhau; tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân lao động chống lại các thế lực thù địch.
Trong giai đoạn hiện nay cần nhận thức rõ tính chất gay go, phức tạp của đấu tranh giai cấp. Tránh cả hai thái cực hoặc cường điệu giai cấp, hoặc phủ định đấu tranh giai cấp.
II. QUAN HỆ GIAI CẤP VỚI DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
– Khái niệm dân tộc.
+ Theo nghĩa rộng.
+ Theo nghĩa hẹp.
– Định nghĩa dân tộc.
– Đặc trưng dân tộc.
+ Cộng đồng về ngôn ngữ.
b. Quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong lịch sử
+ Cộng đồng về lãnh thổ.
+ Cộng đồng về kinh tế.
+ Cộng đồng về văn hoá, tâm lý, tính cách.
– Quan hệ mật thiết, không tách rời nhau và cũng không thay thế được cho nhau
– Giai cấp cơ bản là sản phẩm trực tiếp của phương thức sản xuất đang tồn tại; giai cấp không cơ bản và các tầng lớp trung gian.
– Giai cấp cơ bản giữ vai trò quy định tính chất, xu hướng mối quan hệ giữa các dân tộc và xu hướng phát triển của dân tộc.
c. Vấn đề dân tộc và quan hệ giữa giai cấp với dân tộc trong thời đại ngày nay
– Lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc không hoàn toàn đồng nhất với nhau.
– Vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài và vấn đề giai cấp được giải quyết theo quan điểm của một giai cấp nhất định.
– Vai trò to lớn của vấn đề dân tộc trong sự phát triển của lịch sử và vai trò của cách mạng giải phóng dân tộc đối với cách mạng giải phóng giai cấp vô sản.
– Những biến đổi nổi bật trong thời đại ngày nay
+ Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển tạo ra những bước nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất đã thúc đẩy nhanh chóng quá trình xã hội hoá, quốc tế hoá các kết cấu giai cấp; các quan hệ giai cấp – dân tộc – nhân loại.
+ Sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa tư bản đang ở thế có lợi, có ưu thế hơn chủ nghĩa xã hội
+ Chế độ xã hội chủ nghĩa tiếp tục tồn tại; tuy bị suy yếu nhưng tiếp tục thích nghi, đổi mới để phát triển.
+ Ưu thế của cơ chế thị trường trên toàn thế giới và sự phát triển nhanh của quá trình toàn cầu hoá.
– Nội dung vấn đề giai cấp hiện nay quan hệ chặt chẽ với vấn đề độc lập dân tộc; ngược lại, vấn đề xây dựng mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc, vấn đề giải phóng dân tộc tác động mạnh mẽ đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân trên thế giới.
2. Nhân loại và quan hệ giai cấp với nhân loại
– Trong thời đại ngày nay, yếu tố dân tộc trong sự phát triển xã hội và trong quan hệ dân tộc – giai cấp vận động theo hai xu hướng
+ Xu hướng giảm tương đối vai trò yếu tố dân tộc và sự khác biệt giữa các dân tộc; tăng sự phụ thuộc, giao lưu lẫn nhau giữa các dân tộc.
+ Xu hướng khẳng định và tăng cường yếu tố dân tộc, bản sắc dân tộc.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp, nhân loại trong cách mạng Việt Nam
– Khái niệm nhân loại và lợi ích nhân loại
– Mối quan hệ giữa giai cấp với nhân loại trong lịch sử
4. Quan hệ giai cấp, dân tộc, nhân loại trong cách mạng Việt Nam hiện nay
– Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
– Giải phóng giai cấp phải gắn liền với giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
– Phát huy khối đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
CHƯƠNG X. LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM TS. Phạm Văn Sinh, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội.
– Phát huy khối đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh công – nông – trí dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
1. Nguồn gốc, bản chất và đặc trưng của nhà nước a. Nguồn gốc nhà nước
– Giải quyết tốt mối quan hệ giữa xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với đại đoàn kết dân tộc.
– Giải quyết tốt mối quan hệ giữa giữ vững độc lập tự chủ với mở rộng quan hệ quốc tế, phát huy sức mạnh nội lực của dân tộc với tranh thủ sức mạnh của thời đại./.
I. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC
– Hệ thống quản lý xã hội trong các bộ lạc nguyên thuỷ là chế độ tự quản của nhân dâ thường bao gồm
+ Hội đồng bộ lạc, là cơ quan quyền lực thường trực.
+ Đại hội nhân dân, do Hội đồng bộ lạc triệu tập để quyết định những công việc quan trọng.
+ Thủ lĩnh quân sự chuyên đảm nhận công việc bảo vệ bộ lạc.
– Nhà nước ra đời do các nguyên nhân
+ Sự dư thừa tương đối của cải xã hội là cơ sở khách quan làm nảy sinh khát vọng chiếm đoạt ở những thủ lĩnh thị tộc, bộ lạc.
+ Các thủ lĩnh thị tộc, bộ lạc sử dụng quyền lực để chiếm đoạt của cải đã thúc đẩy sự phân hoá giai cấp trong xã hội.
b. Bản chất của nhà nước
+ Chiến tranh làm tăng quyền lực của các thủ lĩnh quân sự và do đó làm tăng thêm mâu thuẫn xã hội.
+ Các tổ chức lãnh đạo thị tộc, bộ lạc dần thoát khỏi gốc rễ trong nhân dân; từ chỗ là công cụ của nhân dân trở thành đối lập với nhân dân.
– Luận điểm của V.I.Lênin về nguyên nhân xuất hiện của nhà nước.
– Nhà nước là yếu tố đặc biệt quan trọng trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp đối kháng.
c. Đặc trưng của nhà nước
– Nhà nước là hệ thống tổ chức quyền lực công cộng đặc biệt; thường có cấu trúc gồm bộ phận quyền lực, thực thi quyền lực và giám sát quyền lực.
– Nhà nước là một bộ máy quyền lực của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác; dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác; là cơ quan quyền lực của một giai cấp đối với toàn thể xã hội; là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị xã hội
Như vậy, nhà nước là công cụ chuyên chính giai cấp của giai cấp thống trị; là công cụ thực hiện quyền lực giai cấp và quyền lực xã hội của giai cấp đó.
2. Chức năng cơ bản và vai trò kinh tế của nhà nước a. Chức năng cơ bản của nhà nước
– Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực thực hiện việc quản lý dân cư theo lãnh thổ quốc gia; đồng thời trong phạm vi lãnh thổ đó, nhà nước quản lý dân cư theo các khu vực địa lý hành chính để thực hiện sự thống nhất quyền lực cai trị.
– Nhà nước là một bộ máy tổ chức quyền lực đặc biệt; quyền lực đó được đảm bảo bằng sức mạnh của hệ thống tổ chức- thiết chế quyền lực chuyên nghiệp.
– Nhà nước xác lập chế độ thuế khoá để duy trì và tăng cường bộ máy cai trị.
– Chức năng chính trị và chức năng xã hội của nhà nước. Mối quan hệ giữa chúng.
+ Chức năng chính trị của nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích của giai cấp thống trị.
+ Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng bảo vệ và thực hiện lợi ích chung của cộng đồng quốc gia, trong đó có lợi ích của giai cấp thống trị.
+ Mối quan hệ giữa hai chức năng chính trị và xã hội của nhà nước là mối quan hệ biện chứng. Chức năng chính trị quy định tính chất, phạm vi, hiệu quả việc thực hiện chức năng xã hội. Chức năng xã hội giữ vai trò là cơ sở cho việc thực hiện chức năng chính trị; đảm bảo cho việc thực hiện chức năng chính trị có hiệu quả.
– Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại của nhà nước. Mối quan hệ giữa chúng.
b. Vai trò kinh tế của nhà nước
+ Chức năng đối nội của nhà nước là chức năng xây dựng, củng cố, phát triển và bảo vệ chế độ kinh tế – xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị.
+ Chức năng đối ngoại của nhà nước là chức năng bảo vệ biên giới lãnh thổ quốc gia và thực hiện các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội với các nhà nước khác. Thực chất của chức năng này là thực hiện lợi ích giữa các giai cấp thống trị trong các quốc gia khác nhau
+ Mối quan hệ giữa hai chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước thể hiện ở chỗ chúng thống nhất với nhau, trong đó chức năng đối nội quy định chức năng đối ngoại; ngược lại chức năng đối ngoại có tác động mạnh lên chức năng đối nội.
– Với tư cách là một trong những yếu tố của kiến trúc thượng tầng, nhà nước có tác động mạnh, toàn diện lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Xét trong tổng thể của cấu trúc hình thái kinh tế – xã hội, vai trò của nhà nước đối với kinh tế thuộc phạm vi mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng với thiết chế chính trị, pháp luật của kiến trúc thượng tầng.
+ Sự tác động của nhà nước đối với kinh tế có thể theo hai chiều hướng, hoặc thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, hoặc kìm hãm sự phát triển ấy.
– Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, sự tác động của nhà nước đối với kinh tế thể hiện ở
3. Các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử a. Các kiểu và hình thức nhà nước dựa trên sự đối kháng giai cấp
+ Nhà nước tư bản điều tiết các quan hệ kinh tế sao cho ít khả năng xẩy ra khủng hoảng nhất.
+ Nhà nước tư bản tập trung vào các khu vực kinh tế công, là những lĩnh vực kinh tế cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội nhưng ít có lợi nhuận.
+ Nhà nước tập trung ổn định môi trường chính trị (đối nội, đối ngoại) để tăng trưởng kinh tế.
Lịch sử nhân loại đã trải qua ba hình thái kinh tế – xã hội dựa trên sự đối kháng giai cấp. Tương ứng với ba hình thái kinh tế – xã hội đó là ba kiểu nhà nước của các giai cấp bóc lột.
– Nhà nước chủ nô thực hiện sự chuyên chính của giai cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ và tầng lớp tự do. Hình thức cơ bản của nhà nước chủ nô là nhà nước quân chủ và nhà nước cộng hoà.
– Nhà nước phong kiến thực hiện sự chuyên chính của giai cấp phong kiến đối với giai cấp nông dân và những người lao động khác. Hình thức cơ bản của nhà nước phong kiến phương Tây là nhà nước phong kiến phân quyền. Hình thức cơ bản của nhà nước phong kiến phương Đông là nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền dựa trên chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất.
Nhà nước phong kiến Việt Nam tồn tại phổ biến trong hình thức nhà nước quân chủ phong kiến tập quyền suốt trong gần 10 thế kỷ (từ thế kỷ X đến thế kỷ XX).
– Nhà nước tư bản thực hiện sự chuyên chính của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân và nhân dân lao động nói chung. Hình thức cơ bản của nhà nước tư bản là hình thức nhà nước cộng hoà và hình thức nhà nước quân chủ lập hiến.
Tuy khác nhau về hình thức cụ thể, nhưng chung quy lại thì tất cả các nhà nước tư bản đều là nền chuyên chính tư sản.
b. Kiểu nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
– Kiểu nhà nước chuyên chính vô sản
+ Là kiểu nhà nước thích ứng với thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước chuyên chính vô sản được xác lập khi cách mạng của giai cấp vô sản và nhân dân lao động xoá bỏ nhà nước của các giai cấp bóc lột và tự tiêu vong khi xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản.
+ Là kiểu nhà nước mang bản chất giai cấp vô sản; được xây dựng và hoàn thiện theo mục tiêu xây dựng và quản lý kinh tế – xã hội; tổ chức nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở liên minh giai cấp công nông và tầng lớp trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của đảng giai cấp vô sản.
+ Là kiểu nhà nước có chức năng trấn áp và chức năng tổ chức xây dựng nền kinh tế mới, xã hội mới.
– Hình thức của nhà nước chuyên chính vô sản
+ Công xã Pari (1871).
1. Khái niệm nhà nươc pháp quyền và lịch sử tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền a. Khái niệm nhà nước pháp quyền
+ Liên bang Xô viết (1917 – 1991).
– Hình thức nhà nước Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là Dân chủ cộng hoà và nay là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa.
II. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
– Định nghĩa.
– Đặc điểm.
+ Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước, trong đó pháp luật có vai trò tuyệt đối.
b. Tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
+ Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước, trong đó quyền lực nhà nước thể hiện được lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân.
+ Nhà nước pháp quyền là hình thức tổ chức nhà nước, trong đó có sự đảm bảo thực tế mối quan hệ hữu cơ về trách nhiệm và quyền hạn giữa nhà nước với công dân.
+ Cũng có quan niệm cho rằng, ngoài ba đặc trưng chung của mọi nhà nước pháp quyền đã nêu ở trên, nguyên tắc tam quyền phân lập phân quyền lực nhà nước thành ba nhánh quyền lực (quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp) đối lập, chi phối nhau trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước.
– Tư tưởng coi trọng pháp luật trong cai trị và quản lý xã hội thời cổ đại.
– Tư tưởng về nhà nước và pháp quyền thời trung cổ.
2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam a. Bản chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
– Lý luận về nhà nước pháp quyền thời cận đại ở tây Âu
Khái quát một số tư tưởng triết học về nhà nước pháp quyền thời cận đại tây Âu và cổ điển Đức (Lý thuyết pháp quyền tự nhiên của Xpinôda; lý thuyết về tự do của Lốccơ; lý thuyết về tam quyền phân lập của Môngtexkiơ; lý thuyết về chủ quyền nhân dân và khế ước xã hội của Rútxô; lý thuyết về triết học pháp quyền của Cantơ và Hêghen).
– Khái quát chung về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền tư sản. Nhà nước pháp quyền tư sản với kinh tế thị trường.
– Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở liên minh công – nông – trí; là công cụ quyền lực chủ yếu để nhân dân xây dựng một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ và văn minh; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hoà bình, độc lập, dân tộc, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
– Trong tổ chức và hoạt động của mình, nhà nước được tổ chức trên nguyên tắc thống nhất; có sự phân công và phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
b. Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
– Tính tất yếu phải xây dựng nhà nước pháp quyền mà biểu hiện rõ nét của nó là tính tối thượng của pháp luật trong điều hành và quản lý kinh tế – xã hội.
– Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay cần phải thự hiện những điểm cơ bản sau
+ Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
+ Tiến hành cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước.
CHƯƠNG XI. QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY PGS. TS. Vũ Tình, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Tiếp tục phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương tăng cường pháp chế.
1. Quan điểm về con người trong triết học phương Đông
+ Tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
+ Tiếp tục kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí trong bộ máy nhà nước và trong hệ thống chính trị./.
I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC NGOÀI MÁCXÍT VỀ CON NGƯỜI
– Quan điểm về con người trong triết học Phật giáo.
+ Phật giáo phủ nhận vai trò của Đấng sáng tạo, phủ nhận cái Tôi của con người.
+ Trong quá trình tồn tại, con người có trần tục tính và phật tính. Bản tính con người vốn tự có cái ác và cái thiện. Cuộc đời con người do chính con người quyết định qua quá trình tạo nghiệp.
+ Con đường tu nghiệp để trở thành La Hán, Bồ tát hay Phật được coi là đạo làm người.
2. Quan điểm về con người trong triết học phương Tây a. Thời cổ đại
– Quan điểm về con người trong triết học Nho gia.
+ Con người và vạn vật được tạo nên từ sự hỗn hợp giữa Trời với Đất trong khoảng giữa âm – dương và do bẩm thụ tính Trời nên bản tính con người vốn thiện.
+ Bản chất con người bị quy định bởi Mệnh Trời “Nhân giã kỹ thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi trí khí giã- Con người là cái đức của Trời Đất, sự giao hợp của âm dương, sự tụ hội của quỷ thần, cái khí tinh tú của ngũ hành”.
b. Thời Trung cổ
– Quan điểm về con người trong triết học duy vật Hy Lạp cổ đại (Empêđôclơ, Lơxíp, Đêmôcrít v.v).
– Quan điểm về con người trong triết học duy tâm Hy Lạp cổ đại (Xôcrát và Platôn v.v).
c. Thời Phục hưng và Cận đại
– Quan điểm về con người trong triết học Arítxtốt.
– Quan điểm về con người của Cơ đốc giáo.
– Quan điểm về con người trong triết học Tômát Đacanh.
Triết học phương Tây thời nào cũng có tư tưởng duy vật gắn với thực tiễn xã hội; tuy nhiên, ở bất kỳ thời nào quan điểm duy tâm về con người vẫn là tư tưởng thống trị.
Cho đến khi “Thuyết tiến hoá của các loài” của Đácuyn ra đời, các nhà triết học duy vật mới có căn cứ khoa học để chỉ ra nguồn gốc phi thần thánh của con người “Không phải Chúa đã tạo ra con người theo hình ảnh của Chúa mà chính con người đã tạo ra Chúa theo hình ảnh của con người” (Phoiơbắc). Tuy vậy, do chịu ảnh hưởng bởi phương pháp tư duy siêu hình nên đã giải thích sai lệch về nguồn gốc và bản chất con người. Còn các nhà duy vật thế kỷ XVII-XVIII (Hốpxơ) coi con người khi sinh ra đã mang sẵn bản chất tự nhiên (tính đồng loại).
Phái nhân bản học sinh vật (Phoiơbắc, Phờrớt v.v) cho con người là một thực thể tự nhiên, sinh vật; con người sinh vật thuần tuý; con người nhân bản, tuyệt đối hoá yếu tố sinh vậtcủa con người, quy bản chất của con người vào tính tự nhiên của nó. Ở Phoiơbắc, bản chất của con người nằm ở tính tộc loại được thể hiện ra trong tình cảm, đạo đức, tôn giáo và tình yêu.
Đây là quan điểm triết học đã tuyệt đối hoá mặt tự nhiên của con người, tách con người ra khỏi các hoạt động (thực tiễn) của họ, làm hoà tan bản chất con người vào bản chất tôn giáo.
c. Thời hiện đại
– Quan điểm về con người trong triết học Italia.
– Quan điểm về con người trong triết học Anh (Ph.Bêcơn).
1. Quan điểm triết học Mác – Lênin về bản chất con người
– Quan điểm về con người trong triết học Hà Lan (Xpinôda)
– Quan điểm về con người trong triết học phương Tây hiện đại thể hiện rõ nét qua các quan điểm của phân tâm học, chủ nghĩa nhân vị, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa phê phán, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu trúc v.v, trong đó các quan điểm về con người của chủ nghĩa hiện sinh giữ vai trò chủ yếu.
II. QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
2. Quan điểm triết học Mác – Lênin về giải phóng con người
a. Con người là thực thể sinh vật – xã hội
b. Con người là chủ thể của lịch sử
c. Bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội
– Vị trí vấn đề giải phóng con người trong triết học Mác – Lênin
– Thực chất quan điểm giải phóng con người trong triết học Mác – Lênin
– Quan điểm triết học Mác về phương thức và lực lượng thực hiện việc giải phóng con người
Bất kỳ sự giải phóng nào cũng bao hàm ở chỗ là nó trả thế giới con người, những quan hệ của con người về với bản thân con người; là giải phóng người lao động thoát khỏi lao động bị tha hoá.
+ Lao động bị tha hoá là lao động làm người lao động đánh mất mình trong hoạt động người, nhưng lại tìm thấy mình trong hoạt động vật.
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
+ Lao động bị tha hoá là lao động làm đảo lộn các quan hệ của người lao động.
+ Lao động bị tha hoá là lao động làm người lao động bị phát triển què quặt.
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG DO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
2. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
– Nhu cầu khách quan của lịch sử – xã hội.
– Văn hoá và truyền thống của người Việt Nam.
– Tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là tư tưởng về cả cá nhân, cộng đồng, giai cấp, dân tộc và về cả nhân loại.
a. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động là tư tưởng về sự kết hợp giữa dân tộc với giai cấp, dân tộc với quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội
– Độc lập, tự do là quyền bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc.
– Giải phóng dân tộc trước hết phải do chính các dân tộc thực hiện.
– Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân lao động.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng là tư tưởng sự nghiệp cách mạng, thành quả cách mạng của dân, do dân và vì dân
– Độc lập, tự do gắn với xã hội của dân, vì dân.
c. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người còn là tư tưởng về phát triển con người toàn diện
– Quyền dân chủ của nhân dân.
– Giải phóng con người bằng cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
– Trách nhiệm, công việc, chính quyền, đoàn thể, quyền hành của dân.
Xây dựng con người phát triển toàn diện, tức là quá trình làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của con người
1. Con người Việt Nam trong lịch sử a. Điều kiện lịch sử hình thành con người Việt Nam
– Tiêu chuẩn cơ bản hàng đầu của con người toàn diện là đức và tài, trong đó đức là gốc.
– Nguyên tắc cơ bản để xây dựng con người toàn diện là tu dưỡng, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn, thực hiện đồng bộ quá trình giáo dục và tự giáo dục
IV. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
– Sự tác động của môi trường – địa lý.
b. Mặt tích cực và mặt hạn chế của con người Việt Nam
– Đời sống kinh tế.
– Lịch sử giữ nước.
– Môi trường văn hoá.
– Mặt tích cực.
+ Lòng yêu nước, ý chí tự cường dân tộc.
+ Tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – tổ quốc.
+ Lòng nhân ái, khoa dung, trọng nghĩa tình, đạo lý.
+ Đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động.
+ Tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống.
– Mặt hạn chế.
2. Con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
+ Hạn chế của truyền thống dân chủ làng xã.
+ Tập quán sản xuất tiểu nông; Quá đề cao vai trò của kinh nghiệm.
+ Tính hai mặt của một số truyền thống.
b. Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng hiện nay
a. Cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với con người Việt Nam
– Tình hình thế giới với cuộc cách mạng khoa học, công nghệ và quá trình toàn cầu hoá. Hoà bình, hợp tác, phát triển đang trở thành xu thế lớn của giai đoạn hiện nay.
– Tình hình trong nước với quá trình đổi mới; cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường; chính trị, xã hội ổn định cùng với các nguy cơ vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau.
– Hình thành và phát triển ở con người Việt Nam những đức tính cơ bản sau
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực.
– Để đạt được những đức tính cơ bản trên, người Việt Nam tập trung đầu tư phát triển vào những lĩnh vực chủ yếu sau
+ Lĩnh vực kinh tế.
+ Lĩnh vực chính trị.
III. TÀI LIỆU
+ Lĩnh vực xã hội.
+ Lĩnh vực giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ.
+ Lĩnh vực văn hoá./.
I. Giáo trình
Bộ Giáo dục và Đào tạo: Giáo trình Triết học (Dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh không thuộc chuyên ngành triết học). Nxb, Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2006.
II. Tài liệu tham khảo
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo: Triết học (Dùng cho nghiên cứu sinh và học viên cao học không thuộc chuyên ngành triết học) 3 tập. Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 1997.
2. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn Giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh: Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
( MK LAW FIRM: Bài viết được đăng tải nhằm mục đích giáo dục, phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không nhằm mục đích thương mại. Thông tin nêu trên chỉ có giá trị tham khảo vì vậy Quý khách khi đọc thông tin này cần tham khảo ý kiến luật sư, chuyên gia tư vấn trước khi áp dụng vào thực tế.)